TRAN XUAN AN - PCDT NGUYEN VAN TUONG (tap I A)

Monday, December 12, 2005

Tệp 5 - Tập I
Phân đoạn 2 truyện kí thứ ba

Đã đăng trên Tạp chí điện tử Giao Điểm
số tháng 11-2005
http://www.giaodiem.
com/mluc/mluc_IV05/1105_txa_ky5.htm




TRẦN XUÂN AN

CHÍN NĂM, MỘT HUYỆN MIỀN NÚI


Truyện kí thứ ba
(phân đoạn 2)


4

Tri huyện Thành Hoá Nguyễn Văn Tường ngay tức khắc nghe được tin thực dân Phú Lãng Sa tấn công vào Đà Nẵng khi sự biến xảy ra (29). Đó là một luồng tin tức chạy nhanh như làn chớp khắp kinh sư, các tỉnh tả hữu trực kì và khắp cả nước!
Báo động! Báo động!
Ngày hai mươi bốn tháng bảy, Mậu ngọ (01.09.1858), năm Tự Đức thứ mười một, mười hai chiếc thuyền binh Phú Lãng Sa và Y Pha Nho vào cửa biển Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam, bắn phá hai thành Điện Hải, An Hải, mở đầu cuộc xâm lược thực sự bằng súng đạn vào nước ta, nếu không kể vụ bắn chìm năm chiếc thuyền chiến cũng tại nơi đó vào năm Thiệu Trị thứ bảy (1847)! Thời điểm này, ông biết, tuần vũ Nam – Ngãi là Trần Hoằng, bố chính sứ Quảng Nam là Thân Văn Nhiếp, và không ai khác, Lê Văn Phổ đang lãnh nhiệm án sát. Văn Nhiếp, Văn Phổ đã bị giáng bốn cấp, lưu nhiệm!
Nguyễn Văn Tường thừa hiểu, để dập tắt những cuộc dấy loạn của “tả đạo” bên trong, tất nhiên các vụ trấn áp của quan quân triều đình phải diễn ra, kèm với các đạo dụ cấm đạo liên tiếp được ban hành. “Tả đạo” đã tạo cớ cho thực dân “can thiệp” nhằm mưu toan xâm lược toàn diện nước ta, chủ yếu là cướp bóc của cải và sức người! Hãy nhìn quanh các nước Ấn, Miến, Hạ Châu, Cao Ly, Thanh… Hãy đọc những cái được gọi một cách mỉa mai là “hoà ước” bọn Tây dương ép buộc các nước ấy phải kí!
Thành Hoá đã được khởi động việc tăng cường phòng thủ. Hơn bao giờ hết, tri huyện Nguyễn Văn Tường nhắc nhở các đội quân thuộc huyện, đặc biệt là tham mưu cho đội quân Định biên, phải lo đắp sửa đồn bảo, nhất là bảo Ải Lao. Nỗi lo toan trực tiếp và lớn nhất của triều đình là bị tấn công phía các cửa biển. Kế đó, là nỗi âu lo về khả năng thứ hai, bọn Hồng Mao và Phú-lãng-sa từ đất Miến, Xiêm có thể vượt đất Lào, sông Khung (Cửu Long), đánh tập hậu kinh đô đồng thời với việc uy hiếp hai cửa biển Thuận An, Tư Hiền ở Thừa Thiên, cùng hai hải khẩu khác, Tùng Luật, Việt Yên ở Quảng Trị. Tuy nhiên, cũng như đồn bảo sơn phòng Ải Lao là quan trọng nhất so với các đồn sơn phòng khác, cửa biển hải phòng Thuận An vẫn trọng yếu nhất trong bốn cửa biển kinh sư. Ở đây đã có Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Bằng, dưới kia đã có Trần Tiễn Thành, Nguyễn Như Thăng. Cơ Định biên của Nguyễn Bằng đã được tăng cường quân số.
Trong khi lo tiến hành phòng thủ sinh điểm của kinh đô, Nguyễn Văn Tường ngày ngày tìm cách lắng nghe tin tức từ Đà Nẵng, nghiên cứu các thông tư mật của triều đình. Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương, sung làm tổng thống quân thứ Quảng Nam (30), đã ra trận, dùng chiến thuật đào hào đánh lấn, có những trận thắng rất oanh liệt. Ông nhận định: “Giặc lấy chiến làm lợi [thế], ta lấy thủ làm lợi [thế]”, và kính kiến nghị: “Xin lấy thủ làm chiến, đắp thêm đồn luỹ, để dần dần tiến đến gần giặc” (31) . Bọn giặc Phú Lãng Sa và Y Pha Nho đành cầm cự, không tiến được, vì thế. Vả lại, chúng bị mắc kẹt quân ở Tàu (32). Hơn nữa, khác với lời hứa hẹn của các cố đạo, sẽ có hằng vạn tín đồ hiệp lực, chúng không ngờ, sự thật, “tả đạo” người Việt ở Đà Nẵng ra mặt ủng hộ chúng chỉ vài chục người với độc nhất một đạo trưởng (linh mục) (33)! “Tả đạo” Đàng Trong không “nhẹ dạ” như “tả đạo” Đàng Ngoài ư? Đó là băn khoăn, thắc mắc của vua Tự Đức. Và chính Phan Thanh Giản, sau đó, đã thưa rõ nguyên nhân: Đàng ngoài theo “tả đạo” nhiều hơn (34)!
Ở Bắc Kì, tại Hải Dương, hai tên đầu sỏ giặc theo đạo Gia Tô, Nguyễn Đình Đường, Hoàng Văn Điển, đều là tay chân của tú Yêm, của cố đạo Tây lấy tên Việt – cụ Xuyên (35). Chúng đã chịu tội chết. Tại Nam Định, quan quân bắt được đầu sỏ giặc là đạo trưởng Hoàng Kim Duyệt, lập tức chém bêu đầu (36).
Quấy nhiễu Bắc Kì, đánh Trung Kì, thế là rõ thủ đoạn của giặc! Chúng muốn đánh lạc hướng, chia nhỏ lực lượng phòng thủ của ta!
Tháng chín nguyệt lịch, tri huyện Nguyễn Văn Tường được thăng tán lí Bộ Binh (37), vẫn giữ chức vụ cũ. Với quân hàm mới này, ông đã trở thành một quan văn kiêm làm nhiệm vụ quân đội.
Lại nghe tin ở Bắc Kì, tàu chiến Tây dương vào đỗ ở Dậu Sơn, tỉnh Hải Dương, bọn cố đạo Đỗ Thế Hùng (cụ Thái) họp quân ở Đông Triều, cũng thuộc tỉnh ấy! Quỷ quái hơn, chúng còn cho một kẻ ngụy xưng là hậu duệ vua Lê, với cái tên Lê Duy Minh, có các tên giặc khác như Trần Văn Tùng, Trần Đức Thịnh phù giúp! Ở Nam Định, tại xã Vĩnh Trị, đạo trưởng Thế chứa thóc gạo, ván gỗ, luyện quân! Và những Lý Thạch, Lê Khảm, Trần Văn Bích, Trần Văn Bách, tú Hựu, Khoan, Dương Văn Tiến, Vũ Văn Tung, Vũ Sỹ, Vũ Văn Kịch dấy loạn với nỗi thèm khát lập được một nước do bọn “tả đạo” Tây dương và quan binh Phú – Y “bảo hộ” (38)… Trong khi đó, ngược lại, có những người Bắc kì yêu nước như tiến sĩ Phạm Văn Nghị (39), cử nhân Nguyễn Đức Ý (40)… Họ ra sức chiêu mộ quân, xin vào Đà Nẵng đánh Tây, ra sức lập kho xã thương, đem tiền gạo, của riêng, giúp kẻ nghèo túng, nuôi quân binh triều đình, hiến ruộng đất tư làm ruộng đất công.
Những tưởng với quân hàm mới, tán lí Bộ Binh, ông sẽ được ra trận, vào tận mặt trận nóng bỏng nhất là Đà Nẵng, nhưng Nguyễn Văn Tường cũng tự biết, không ai có thể thay ông ở vị trí phòng thủ xung yếu này, một địa bàn ông đã thuộc như lòng bàn tay. Ông chỉ còn biết ngoài việc tăng cường phòng thủ, còn phải kịp thời và ra sức vận động dân sơn nguồn tìm bắt, tìm mua voi đánh trận theo kiến nghị của Bộ Binh đã được vua chuẩn y (41).
Đầu năm Tự Đức thứ mười hai (1859), tháng giêng, sau Tết Nguyên đán, khi Nguyễn Văn Tường bước vào tuổi ba mươi sáu, giặc Phú và Y lại chuyển hướng, tấn công vào Phúc Thắng thuộc Biên Hoà và các đồn bảo ở Gia Định (42)!
Vũ Văn Kịch ở Hải Dương lại quấy phá mạnh (43)!
Và giặc Tây đánh chiếm thành Gia Định! Gia Định đã thất thủ (17.02.1959) (44)!
Dẫu đã trực cảm mưu kế dương đông kích tây của giặc, Nguyễn Văn Tường không khỏi sửng sốt. Thế là rõ!
Ở Bắc Kì, cố đạo Tây dương, làm cố vấn quân binh, cùng “tả đạo” Việt khởi loạn là chính. Quân Phú và Y không dám xâm chiếm Bắc Kì bởi chúng sợ đụng đầu với quân Thanh. Vả lại, cần chiếm Nam Kì để làm bàn đạp đánh chiếm Cao Mên và Lào. Mên, Lào dẫu sao cũng dễ nuốt hơn Vân Nam, Lưỡng Quảng. Nam Kì lại màu mỡ, giàu có hơn Bắc Kì. Chiếm được vựa thóc Nam Kì sẽ giam đói được Trung Kì và Bắc Kì. Âm mưu của chúng là thế đấy!
Suốt ngày đêm, Nguyễn Văn Tường suy nghĩ về mưu kế của bọn xâm lược da trắng. Có những điều trước đó chỉ mới là trực cảm trong nhận thức ông.
Nhưng rồi phải trút hết tâm lực của mình theo lệnh vua: phòng thủ kinh đô!
Vũ Văn Thục được tăng cường về làm tuyên phủ sứ, Nguyễn Tán làm lãnh binh đạo Quảng Trị. Hai cửa biển Việt Yên, Tùng Luật được tăng cường lính hải phòng (45). Nguyễn Văn Tường tập hợp các tổng lí, tri châu, già làng để thông báo: Triều đình cho bảy nghìn bảy trăm sáu mươi (7.760) nhân khẩu đồng bào Thượng thuộc chín châu tại huyện nhà được hoãn thuế năm (5) năm nữa (46). Ông nói rõ với đồng bào, thời điểm chiến tranh này, các nơi đều phải tăng các khoản nộp ngoài thuế nhằm phục vụ quân nhu, riêng đồng bào thiểu số huyện nhà chúng ta lại được ưu đãi đó.
Sau cuộc họp dân, tin chiến sự lại ập đến: Bọn Phú và Y lại đánh phá Thạch Than, tại Đà Nẵng (47)! Chúng mở ra ba mặt trận: Trung, Bắc và Nam! Vẫn mưu kế ấy! Triều đình lại buộc phải trấn áp bọn “tả đạo” ở Gia Định, và lần này trấn áp mạnh, bởi chúng ra mặt cậy thế giặc Phú, Y để lên mặt với quan lại và dân lương, một khi thành luỹ kiên cố vào hạng nhất của nước ta là Gia Định đã thất thủ (48).
Thành Gia Định thất thủ gây chấn động cả nước. Triều đình mở rộng các cuộc đình nghị với các tập tâu của các đình thần, các thần, nha thần: Chiến? Hoà? Thủ?
Chiến? Hoà? Thủ? Có ba loại ý kiến dâng tâu. Nguyễn Văn Tường sung sướng khi nghe tin bạn ông, Nguyễn Đăng Điều, con rể của cụ thượng thư Bộ Binh Trương Đăng Quế, kiên quyết giữ ý kiến chiến và thủ, trong khi đó nhiều quan lại lừng chừng, hoà và thủ. Vua Tự Đức phải nói: “Các ngươi biết việc đánh, việc giữ là khó, mà không biết việc hoà lại càng khó hơn” , bởi hoà, thực chất là phải nhân nhượng một số điều khoản có lợi cho giặc, như mở cửa biển cho chúng buôn bán thu lợi, lại cho chúng tâm công vào dân ta bằng cách truyền bá “tả đạo”… Nhà vua cũng không dứt khoát điều gì, đến nỗi Bùi Quỹ mới từ Bắc công cán về, thấy như thể kẻ cầm dầm, người cầm chèo, trái khoáy, ngược chiều nhau trước vận nước, phải tâu lên: Xin nhà vua quyết đoán (49) .
Trong lúc Quảng Trị đang lo mua đá núi, gỗ cây cho việc đào sông, phòng thủ (50) dưới sự chỉ đạo của quan quản đạo và của phủ doãn Phan Đình Tuyển, trong lúc nhân dân Quảng Trị lập kho nghĩa thương chẩn cấp hộ điêu háo, lo lạc quyên gạo, chở vào mặt trận Quảng Nam phục vụ chiến sĩ (51), trong lúc tri huyện Thành Hoá Nguyễn Văn Tường khéo léo thuyết phục trưởng bang châu Tá Bang Lĩnh Tuấn tiến dâng một thớt voi trận và chiêu tập đồng bào thiểu số tốt (52), thuyền chiến Tây dương lại đốt năm chiếc thuyền vận tải của triều đình và ba chiếc thuyền buôn của dân ta ngoài biển Quảng Trị, Quảng Bình (53)!
Quan tri huyện Nguyễn Văn Tường rất xúc động khi nghe tin Trần Đình Túc đã từ Phú Yên ra mặt trận Quảng Nam với quân hàm, trong tháng chín Kỉ mùi (1859) này (54). Vậy là ở mặt trận Nam Kì, có tri phủ Định Tường Trần Xuân Hoà (55), có cả tuần vũ Biên Hoà Nguyễn Đức Hoan (56). Đó là ba người đồng hương Quảng Trị đang đứng trên các vị trí chiến đấu. Nếu nghĩ rằng sự luận bàn phương lược ở triều đình vừa rồi cũng là một cuộc chiến đấu trên lĩnh vực lí luận chỉ đạo, thì Quảng Trị của Nguyễn Văn Tường có một Nguyễn Đăng Điều (57). Tri huyện tán lí Bộ Binh Nguyễn Văn Tường những mong ba người bạn của anh và tiến sĩ Nguyễn Đức Hoan sẽ đóng góp sức mình cho Tổ quốc một cách thật trí tuệ, hào tráng. Và Hoàng Hữu Xứng nữa, người đồng hương đỗ cử nhân sau ông một khoa, nghe đâu cũng đang là một huấn đạo được vua Tự Đức cho quyền nhiếp tri huyện, điều động binh thứ, mặc dù được bổ nhiệm làm nhà giáo chỉ mới bốn tháng (58)…

5

Tháng giêng ở huyện miền núi Thành Hoá vẫn còn mưa bay, lạnh buốt. Sang tháng hai, cây cỏ mới thực sự phơi phới trong nắng xuân. Đất trời có tình hay vô tình, không rõ lắm, nhưng cái nắng tươi tắn, non tơ giúp cho Thành Hoá tỉnh táo lại sau những ngày tháng căng thẳng vì đao binh trên Đất nước.
Tri huyện Nguyễn Văn Tường, cùng với hai vị quan từ kinh đô ra xứ này công cán, bước trên lối nhỏ chạy men theo phía trong thành luỹ. Một người là bạn cùng làng, Nguyễn Đăng Điều, hiện đảm nhiệm một nha, trực thuộc một bộ trong lục bộ, sung làm chức năng khâm phái. Một người khác, Nguyễn Túc Trưng (59), hồi còn là giám sát ngự sử tả kì, đã khiến tham tri Phạm Khôi, nguyên tuần vũ Trị – Bình, cũng phải một phen bị ông tâu hặc, phải chịu phạt bổng đến sáu tháng do vợ bìu con ríu trong lúc cùng ông ra hữu kì phía Bắc thăm xét tình cảnh dân bị lũ. Người nổi tiếng là ngôn quan dám nói thẳng ấy cũng đã từng viết sớ can vua Tự Đức không nên sửa chữa hành cung lúc nhân dân khốn khó, tai biến xảy ra luôn, lại khuyên vua cần đổi mới nếp đế vương, nên kiệm ước trong mọi sinh hoạt, và đã được vua khen. Đó là một người Nam Kì, quê ở Hắc Lăng, huyện Phước Yên, đỗ cử nhân thời Thiệu Trị, năm thứ ba, tại trường thi Gia Định. Bây giờ ông đã sắp chuyển qua làm thự phủ thừa kinh sư.
Không biết đang liên tưởng điều gì, Nguyễn Túc Trưng mỉm cười:
- Quan huyện có biết vì sao mình đổi tên từ Nguyễn Văn Hưng thành Nguyễn Túc Trưng không?
- Có lẽ trùng tên với quan lớn Nguyễn Văn Hưng thời tiên đế Thiệu Trị? – Nguyễn Văn Tường cũng mỉm cười, nhớ lại chuyện cũ năm mười tám tuổi –.
- Vậy là ông nhớ rõ rồi! Thời gian cũng nhanh thật!… À, vậy là quan huyện cũng đã bảy, tám năm nhậm chức ở đây?
- Vâng, đúng vậy.
- Tuyên phủ sứ Vũ Văn Thục làm việc tốt chứ? – Khâm phái Nguyễn Đăng Điều khẽ hỏi –. Trước đây, ông ta có tâu xin rút quân Định biên Quảng Trị vốn đã được điều động vào đóng tại kinh đô ra lại, để trấn giữ Bảo Đài (giáp Quảng Bình). Mặc dù đồn ấy không quan yếu, nhưng vua cũng chuẩn cho (60). Quan yếu bậc nhất vẫn là đồn bảo Ải Lao… Phải ra sức chú ý tăng cường ở Ải Lao…
- Vũ Văn Thục cần mẫn… Quan yếu nhất vẫn là lòng dân. “Việc nước cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. – Quan tri huyện Nguyễn Văn Tường đáp –. Cụ Nguyễn Trãi bảo thật chí lí. Việc nước, cốt yếu là phải lấy dân làm gốc, dân vi bản. Việc quân, cũng thế, đồng thời, trước hết phải trừ tham quan ô lại bạo ngược… Đó là cách phòng thủ tốt nhất. Lâu nay, tôi vẫn xem đó là tôn chỉ của huyện.
- Vừa đi, ta vừa đàm luận với nhau về “tả đạo” ở huyện nhà nhé! – Khâm phái Nguyễn Túc Trưng nói –. Tháng chạp năm kia, Kỉ mùi (1859), sau khi ban bố đạo dụ cấm quan lại theo đạo Gia Tô (61), Quảng Trị ta là nơi không có vấn đề gì trong quan chức… Nhưng, khi ban hành các sắc dụ cấm dân theo “tả đạo”, dân tình ở huyện nhà thì thế nào?
Chậm rãi bước như ba người đang bách bộ ngắm cảnh, họ cùng đang nghĩ ngợi. Quan huyện Nguyễn Văn Tường cười:
- Quan khâm phái hỏi ở dân, chắc họ cũng trả lời như tôi: Huyện tôi cũng có vài chục hộ như ở xã Ngọc Đường, tỉnh Hưng Yên ngoài Bắc, đã tự nguyện tu sửa lại đình làng, nhà thờ tộc, thắp hương khấn niệm trời đất, ông bà tổ tiên, không lặn lội đi nhà thờ Chúa nữa (62)… – Quan huyện lại hỏi –. Hình như các khoa đạo có phát hiện ra quan lại lén lút theo “tả đạo”?
- Có đấy! – Khâm phái Nguyễn Đăng Điều gật đầu trả lời –. Tất nhiên, những kẻ ấy đã bị trị tội. Đây là đợt thanh lọc hàng ngũ quan chức. Tình hình Đất nước rất căng thẳng. Bọn Phú và Y liên minh với nhau, quyết đánh ta phen này. Không ngờ thành Gia Định binh lực hùng hậu đến thế cũng thất thủ rất nhanh! Ông Nguyễn Văn Tường chắc đã nghe tin, kinh lược sứ sung tổng thống quân thứ Nguyễn Tri Phương bị trọng thương, ngay trong trận đại đồn Chí Hoà tỉnh Gia Định (25.02.1861) (63)? Thật là tin sét đánh ngang tai! Đức vua sửng sốt, gầy rạc người.
Quan huyện Nguyễn Văn Tường lặng người, không biết nên nói gì. Một lúc lâu, ông khẽ nói:
- Xưa nay, ai cũng tin cậy vào quan kinh lược họ Nguyễn. Đó là một danh tướng lừng lẫy chiến trường ở nước Miên. Nhưng với bọn bạch tạng Phú, Y này… Đối phó với súng thép, tàu đồng của chúng, quả thật, ta không dụng kế là không đánh nổi.
- Thật đúng ý mình! Đồn luỹ kiên cố cũng bó tay! – Khâm phái Nguyễn Đăng Điều chỉ vào thành đất cao hơn sáu trượng, dày hơn một trượng bên cạnh lối đi –. Thành này làm sao sánh với thành Gia Định, đại đồn Chí Hoà. Một phần mười, một phần hai mươi! Muốn đánh chúng, phải dụ chúng vào sâu trong sông, trong đất liền rồi mới cận chiến. Phục kích, cận chiến, là cách loại bỏ súng trường, súng liên thanh, súng đại bác có sức công phá mạnh của chúng. Phải giáp lá cà, súng ngắn của chúng không kịp trở tay. Phải thanh dã kế, vườn không nhà trống. Thế mà có nhiều người vẫn bàn hoà! – Nguyễn Đăng Điều cười khẩy –. Hòa trong thế bại là hàng, ít ra cũng nhân nhượng đến mức không chịu nổi.
- Phục kích, cận chiến, ta không thể thua chúng, đồng ý. Cũng đồng ý không cậy đồn luỹ, phải thực hiện kế thanh dã, vườn không nhà trống. Tuy nhiên, về lâu về dài, ta cũng phải súng thép, tàu đồng như chúng. – Quan huyện Nguyễn Văn Tường nói –. Đoản binh, trường trận đều phải tính đủ!
Khâm phái Nguyễn Túc Trưng gật gù, một thoáng lại cau mày:
- Quan huyện chắc chưa rõ, bọn Phú và Y đã đỗ thuyền chiến ở Ngao Châu, có lẽ chúng sắp đánh Vĩnh Long! Thế mà tháng giêng ta năm ngoái, thống soái Va Du (Page) đưa “hoà” ước mười một điều đến quân thứ Gia Định (64)! Bọn giặc bạch tạng này muốn đánh nữa để bức ép triều đình phải kí! – Ngừng lại, ngẫm nghĩ, ông cảm khái –. Mình là người Nam Kì, không thể ngồi yên ở kinh đô được! Mình đã làm sớ tình nguyện xin đức vua cho mình vào quân thứ Nam Kì sống mái với chúng một phen. Tiến sĩ, hồng lô tự khanh, biện lí Bộ Binh Đỗ Thúc Tĩnh, người Hoà Vang, Quảng Nam, cũng tình nguyện như mình… Nhưng các ông không đi được đâu. Không ai thay các ông được! Mình rành từng mô đất, lòng sông quê mình, cũng như các ông rành rõi từng ngọn núi, bờ nương xứ kinh sư này. – Ông ngừng lại, nén tiếng thở dài, bức bối –. Ồ, bọn giặc Hồi cờ trắng tràn qua cướp phá Bảo Thắng, Thuỷ Vĩ ngoài Hưng Hoá (65), bọn Cao Mên phản loạn qua đóng đồn ở Chu Ức, Trà Bông trong Gia Định (66)! Đủ thứ giặc! Tình hình gay go lắm, kể cả lương thực.
Ba người vẫn bước theo con đường men theo thành luỹ. Vừa bàn luận, chuyện trò, hai khâm phái triều đình vừa quan sát hệ thống phòng thủ của Thành Hoá. Nắng đã lên khá cao trong không khí dịu mát miền núi.
Lát sau, họ về đến công đường huyện.

6

Cũng thật không ngờ, tiếp sau đó một tuần trăng, tri huyện Nguyễn Văn Tường đau xót trong niềm bi tráng khi hay tin tri phủ kiêm binh bị Định Tường Trần Xuân Hoà bị giặc Phú bắt được, tra khảo. Chúng tra tấn phục thù người đã có sáu lần đánh tan tác bọn chúng và ma tà. Ông không chịu nhục, đã cắn lưỡi tự sát. Trần Xuân Hoà tử tiết, thành Định Tường cũng thất thủ (12.04.1861) (67)!
Nguyễn Bá Nghi thay Nguyễn Tri Phương lại chỉ chuyên bàn “hoà”: “Sự thế Nam Kì, duy việc giảng hoà là có thể làm được. Nếu không thế sẽ có việc lo ngại khác”; “Thực ra, tôi thấy sự thể, đánh và giữ đều không làm được. Không hoà thì không định được cục diện […]. Trừ một cách ấy [cách hoà] ra, tôi đành chịu tội” (68) . Chống lại sự bạc nhược ấy, phó quản cơ Gia Định là Trương Định nhất quyết mộ binh dũng, chiến đấu chống giặc Phú và Y đến cùng (69). Thự tuần vũ Đỗ Quang tâu lên vua. Vua Tự Đức phong Trương Định làm quản cơ, rồi lãnh binh. Tri phủ Phước Tuy Nguyễn Thành Ý, tuỳ phái Phan Trung cũng nhiệt thành hưởng ứng. Binh lính mộ nghĩa Nam Kì lên đến hàng vạn. Thật hào tráng. Nhưng, buồn thay, ở ngoài Bắc, tên Pierre Tạ Văn Phụng, vốn được các cố đạo Tây đưa sang Pénang (Mã Lai) đào tạo, trước đây đem về đánh ở Đà Nẵng, nay dưới sự cố vấn của quân sư Charles Duval (70), đạo trưởng Trường (Legrand de la Liraye), vào tháng mười hai, năm Tự Đức thứ mười bốn (1961 – 1962), nổi lên đánh phá với danh nghĩa con cháu vua Lê (71). Trong lúc đó, thành Biên Hoà đã thất thủ, bị giặc chiếm cứ từ tháng mười một (18.12.1861) (72)!
Đầu năm Nhâm tuất, năm Tự Đức thứ mười lăm (1862), Nguyễn Văn Tường lại nghe một lúc hai tin về đồng liêu và đồng hương: Tháng mười âm lịch (1861), Hoàng Hữu Xứng được khen thưởng, vì tiêu diệt thành công bọn cố đạo Tây xúi “dữu dân” Tuy Viễn (Bình Định) quấy phá hậu phương; tháng ba âm lịch năm nay, huấn đạo Xứng sẽ được thăng tri huyện Hà Đông (Tam Kì, Quảng Nam). Tháng giêng (1862), tuần vũ Biên Hoà Nguyễn Đức Hoan, người đã cùng Nguyễn Thế Trị (làng Hương Liễu) làm rạng danh đại khoa cho Quảng Trị, đã bị cách chức, về quê với nguyên tịch (không bị tước học vị tiến sĩ), vì Biên Hoà thất thủ (18.12.1861), Bà Rịa bị giặc chiếm (07.01.1862), không tập hợp được sĩ dân (73)!
Và lại những tin tức phấn chấn tiếp theo tin đau lòng lại ập về kinh sư, thông tư ra Quảng Trị!
Gần đúng một năm từ ngày hai khâm phái Nguyễn Đăng Điều, Nguyễn Túc Trưng ra Thành Hoá kinh lí, trận Nhật Tảo (74) ở Nam Kì gây rúng động quân Phú và Y.

“Hoả hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạc Kiên Giang khấp quỷ thần”

Lửa hồng Nhật Tảo lừng trời đất
Gươm trắng Kiên Giang rúng quỷ thần!


Nhưng, chẳng bao ngày sau, thành Vĩnh Long thất thủ (23.03.1862) (75)!
Và đau đớn thay, Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp đã nhanh chóng kí “hoà” ước Nhâm tuất vào đầu tháng năm (09.05 âm lịch, 05.06.1862) (76), trong niềm phẫn uất của sĩ dân Nam Kì:

“Phan, Lâm mại quốc
Triều đình khí dân”

Phan, Lâm bán nước
Triều đình bỏ dân!


trong lời than thống thiết của vua Tự Đức: “Thương thay con đỏ của triều đình, nào có tội gì! Rất đau lòng! Hai viên này không những là người có tội của bản triều, mà là người có tội của nghìn muôn đời vậy!” (77) .
Chẳng lẽ nhà vua, đình thần và các quan không chịu trách nhiệm gì sao? Phải chăng bọn “tả đạo” người Việt không phải là người Việt nữa? Nhà vua dùng người sai lầm như về sau đã từng tự trách (78)? Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp, hai người nhân dân đã nguyền rủa ấy, thường khi họ luôn tự răn lòng: “nhất thịnh phạn, bất vong cố quốc” (mỗi bữa cơm ngon, không quên nước cũ). Trách họ ư? Trách ta ư? Những người ấy nào đã sâu nặng gì với Tổ quốc này, non sông đất nước này? Họ đã kí những gì với giặc, để hi vọng sau khi kí xong, “có thể ngồi mà trông thấy giàu mạnh” (79) ? Thật lòng, Nguyễn Văn Tường không dám và không nỡ trách ai, nhưng không phải không nghĩ rằng lời nguyền rủa ấy là không thể không đúng (?)…
1. Phú và Y được tự do truyền “tả đạo”.
2. Mất hẳn cho giặc Phú ba tỉnh Gia Định, Biên Hoà, Định Tường và đảo Côn Lôn; thuyền chúng được tự do ra vào trên sông Mê Kông.
3. Muốn giao thiệp hoặc nhượng đất cho nước nào, phải được giặc Phú thuận cho.
4. Mở ba cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên cho Phú và Y vào buôn bán.
5. Phải nộp cái gọi là “bồi thường chiến phí” cho Phú và Y 4.000.000 nguyên; chia ra mỗi năm giao nộp 400.000. Mỗi nguyên (đô-la) là 0,72 lạng bạc ròng.
6. Phú sẽ trả lại Vĩnh Long khi triều đình nước ta rút hết quân thám báo, nhưng chúng vẫn đóng quân ở tỉnh lị.
Không còn gì đau đớn, xót xa, tủi nhục hơn!
Ngay trong những ngày chuẩn bị kí “hoà” ước, lãnh binh quan Nguyễn Tán đã vào kinh, với chức vụ chưởng vệ, quyền chưởng doanh Hùng Nhuệ, bảo vệ kinh thành (80). Tôn Thất Đính mấy năm trời vào Nam Kì quyết tâm đánh giặc, cũng phải chuẩn bị về kinh đô thay Nguyễn Sơn làm đề đốc kinh thành (81), để lo trấn giữ lòng dân phẫn uất! Ông đang rơi vào bi kịch…
Tri huyện Thành Hoá mang quân hàm tán lí quân vụ Nguyễn Văn Tường cũng rời vùng đất xung yếu ấy, sau thời gian suốt chín năm hơn bảo vệ sinh điểm (cũng gọi là huyệt đạo tử vong) của kinh đô và của cả nước, để vào kinh giữ chức viên ngoại lang Bộ Binh (tòng tứ phẩm). Chẳng bao lâu, ông lại vào Quảng Nam làm án sát sứ, không kịp về quê hương Quảng Trị dự lễ khởi công xây đền thờ người anh hùng trung nghĩa Trần Xuân Hoà, theo sắc dụ của vua Tự Đức (82).
Nguyễn Văn Tường rời huyện miền núi Thành Hoá trong niềm đau về vận nước, trong nỗi ngậm ngùi xa biệt một nơi đã trở thành quê hương thứ hai của ông, nơi đã cho ông bao kỉ niệm thời thơ ấu và những tháng năm cường tráng nhất của đời người. Trong tâm hồn thơ ca của tri huyện Nguyễn Văn Tường mãi sừng sững ngọn núi Tá Linh (Voi Phục), vọng sơn của tỉnh, mãi thơm ngát hương hoa mai vàng và trắng trên núi Mai Lĩnh, núi Mai Đàn, mãi in dấu động Tam Thai với hình tượng “chúa ngồi tôi đứng”, mãi mãi lưu giữ bao giờ khắc ông suy tư bên đầu nguồn sông Hiếu chảy về đông, biển Thái Bình, bên đầu nguồn sông Cam chảy về tây, sông Khung (Mê Kông) (83). Nhưng trên tất cả, đó là sự chan hoà, sum vầy, đông vui ngày càng thêm của ngót tám ngàn đồng bào Thượng bên cạnh những xóm làng trù phú của đồng bào Kinh, trên vùng đất Cam Lộ, Hướng Hoá, Đắc Krông, được gọi chung là Thành Hoá thân thương trong trái tim ông.
Hơn chín năm, một huyện miền núi ấy!

Viết đến dòng chữ này lúc 11 giờ kém 13 phút,
ngày 27. 08. 2002
(mười chín tháng bảy Nhâm ngọ,
năm thứ hai công nguyên Hoà Bình).


TRẦN XUÂN AN


(29) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 424.

(30) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 456.

(31) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 466.

(32) Dương Kinh Quốc, Việt Nam, những sự kiện lịch sử (VN., NSKLS.), tập 1, Nxb. KHXH., 1981, tr. 27.

(33) NĐNĐDVP.&TH., sđd., tr. 71.

(34) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 472.

(35) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 454.

(36) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 455.

(37) Gia phả, sđd.; xem thêm: Lê Tiến Công, “Niên biểu Nguyễn Văn Tường”, trong tập Các báo cáo khoa học (CBCKH.), Hội thảo khoa học về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Huế, Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên – Huế, 02.07.2002., tr. 141.

(38) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 464, 459, 466, 468, 473…

(39) ĐNLT., tập 4, sđd., tr. 187.

(40) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 473.

(41) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 470.

(42) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 9, 11.

(43) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 12.

(44) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 12 – 13.

(45) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 17.

(46) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 19.

(47) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 25 – 26.

(48) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 35.

(49) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 37 – 41.

(50) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 42 – 45.

(51) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 74.

(52) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 48.

(53) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 57.

(54) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 71.

(55) ĐNLT., tập 4, sđd., tr. 399.

(56) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 11.

(57) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 39.

(58) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 245, 293 – 294.

(59) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 252, 366; tập 29, sđd., tr. 203. Xem thêm: Quốc triều hương khoa lục (QTHKL.), sđd., tr. 245 – 246.

(60) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 80 – 81.

(61) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 91.

(62) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 438.

(63) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 184.

(64) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 99.

(65) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 167.

(66) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 119.

(67) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr.197.

(68) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 208 – 213, 226 – 228.

(69) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 239.

(70) NĐNĐDVP. & TH., sđd., tr. 250 – 251.

(71) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 263 – 264.

(72) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 255 – 256.

(73) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 279 – 280.

(74) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 283 – 284.

(75) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 286 – 289.

(76) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 297 – 305.

(77) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 302.

(78) ĐNTL.CB., tập 31, sđd., tr. 270.

(79) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 322.

(80) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 296.

(81) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 346.

(82) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 318 – 319.

(83) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., tr. 318 – 319.

TXA.


Hết phân đoạn 2
trọn
truyện kí thứ ba

XIN XEM TIẾP TỆP 6
truyện kí thứ tư
(phần 1)
& CÁC TỆP KẾ TIẾP THUỘC TẬP I
(gồm 16 tệp), TẬP II (cũng gồm 16 tệp)...
trên TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ GIAO ĐIỂM
theo những đường LINKs trên trang này.

TỆP 4 - Tập I
Truyện kí thứ ba
(phân đoạn 1, còn tiếp)

Đã đăng trên Tạp chí điện tử Giao Điểm
số tháng 11-2005
http://www.giaodiem.com/
mluc/mluc_IV05/1105_txa_ky3.htm




PHẦN THỨ HAI
(1853 – 1866)



TRẦN XUÂN AN

CHÍN NĂM, MỘT HUYỆN MIỀN NÚI


Truyện kí thứ ba
(phân đoạn 1)


1

Quan tri huyện Nguyễn Văn Tường cho chú ngựa xích thố đi nước kiệu. Song song với ông là viên phó quản cơ Định biên. Phía sau, viên thông lại tuỳ tùng. Cả hai cũng lỏng tay cương. Hai con ngựa thong thả soải vó cùng xích thố, một sắc lông nâu sẫm, và một kia, màu đen hơi ửng nâu. Họ đang quan sát cảnh núi rừng trùng trùng, điệp điệp, xanh ngắt và bảng lảng mây sương.
Quan huyện ghìm cương, chỉ tay về hướng đông, nơi có thể phác hoạ ra con đường mòn vắt qua các lưng núi:
- Có lẽ phải chọn nơi đó thôi. Nếu mở được con đường thứ hai, thành huyện ở Động Ngang sẽ thoát khỏi thế cô lập. Phải làm hết sức để tránh bị chặn bít lối độc đạo.
- Dạ, bẩm, như rứa thì bao giờ khởi công ạ? – Phó quản cơ Định biên Nguyễn Bằng hỏi –.
- Cho ta xem lại bản sơ đồ! – Nguyễn Văn Tường xuống ngựa, buộc cương vào một thân cây ven lối đi –. Nhưng… Cũng phải nói với nhau thêm một lần nữa thế này, quan phó quản cơ làm ta áy náy quá. Mặc dù quan phó quản cơ trẻ hơn ta hai tuổi, phẩm hàm còn thấp, chỉ lục phẩm, nhưng có tài năng, lại được tạm chức khá cao. Rứa mà cứ một bẩm, hai thưa, ba dạ, khiến ta thật khó xử! Cứ việc ứng xử với nhau theo chức vụ, có được không? Chức phó quản cơ, bình thường phải là tòng tứ phẩm võ giai! Cũng to lắm, không đùa đâu. Ta chỉ mới tri huyện, chánh ngũ phẩm văn giai.
- Vâng… Bản triều vốn đặt chức vụ với phẩm hàm trong sự tương xứng, nhưng vẫn có trường hợp đặc cách, cho mượn hàm, tạm chức. Hơn nữa, vài năm nay, hơi yên, nên triều đình rút bớt quân phiên chế của cơ Định biên. Do đó, tôi mới được lạm dự vào chức vụ này. Thật ra, lục phẩm cũng đã là được ơn, quá lạm rồi. Dám đâu ngông nghênh với quan huyện… – Nguyễn Bằng khiêm tốn và chân thành đáp –.
Viên thông lại Nguyễn Công Đạo cũng đã lập tức xuống ngựa, lấy trong đãy vải sau lưng ra một ống tre sơn đỏ, rút ra một cuộn giấy trong ống tre ấy, trao cho tri huyện với lời bẩm đúng phép. Khi quan huyện Nguyễn Văn Tường mở tấm bản đồ ra, đặt trên phiến đá nóng bỏng nắng, Nguyễn Bằng và Nguyễn Công Đạo cũng đứng bên cạnh, tay giữ góc tấm giấy. Cả ba vừa nhìn thực địa, vừa nhìn lại bản sơ đồ họ đã vẽ.
Nắng buổi sáng đã lên khá cao, mồ hôi đã rìn rịn trên lưng ngựa, nhưng sương vẫn còn vấn vít quanh những quả đồi, trái núi trước tầm mắt họ. Bàn bạc một lúc, quan huyện cho cuốn bản đồ lại, ông nói:
- Phải ra sức thôi. Bản đồ này ta đã đệ trình lên đức vua kèm với tập tâu. Cụ thượng thư Bộ Binh Trương Đăng Quế đang nghiên cứu.
- Bẩm, đúng là phải phá thế cô lập và độc đạo. – Nguyễn Bằng, với con mắt, cách suy nghĩ của võ quan, hết sức tán thành –. Tình hình ngày càng căng thẳng, không thể không lo phòng thủ địa bàn xung yếu này, như quan huyện thường lo nghĩ.
- Ta đã bảo, Cam Lộ, Hướng Hoá này chính là cái gáy của kinh đô. Nhưng ta chưa hỏi quan phó quản cơ, phía gáy có huyệt nào làm bế tắc hết toàn bộ kinh mạch của cơ thể? – Quan huyện Tường nói với giọng suy tư –. Đức vua và đình thần rất tin cậy ở chúng ta, giao cho chúng ta quản nhiệm huyện Thành Hoá này, nên làm sao không lo nghĩ đến sinh điểm, cũng gọi là tử điểm hay tử huyệt (huyệt đạo có thể gây tử vong) đó! Đúng như quan phó quản nói, tình hình rất căng thẳng! Đối phó với nội phản “tả đạo”, quan lớn Vương Hữu Quang phải tâu xin sáu điều xử trị đạo Gia Tô (1). Vụ biến loạn Hồng Bảo ở kinh đô, cũng có tay bọn Tây dương, “tả đạo”, chưa kể còn có thêm bọn phỉ ở Cao Miên giúp sức nữa (2)! Do đó, tháng bảy nhuận năm Giáp dần (1854), triều đình lại thông tư khắp các tỉnh huyện thêm một bản dụ cấm đạo Chúa (3)! Lại thêm ở Bắc Kì, Cao Bá Quát khởi nghịch, tôn phù hậu duệ nhà Lê (4)! Bắc Kì, ở ngoài đó, “tả đạo” như ong! Không có nơi nào “tả đạo” đông đúc và làm loạn dữ dội như ở Đàng Ngoài, nhất là Bắc Kì! Cụ thượng Phan Thanh Giản cũng thường hay nói thế (5)! Cho nên, hơn bao giờ hết, cửa biển Thuận An, cửa rừng Thành Hoá được tăng cường phòng thủ đến tối đa. Cái trán và cái gáy của bộ não trung ương! – Quan huyện Nguyễn Văn Tường nhìn xa xăm, tâm trí chìm vào suy nghĩ –.
Thật lòng, quan huyện rất băn khoăn, thao thức về những vụ khởi loạn ở Bắc Kì. Ai cũng biết, ngoài đó là đất của vua Lê, kinh thành Thăng Long đã từ lâu trở thành niềm hoài niệm, tiếc nuối của một phân số không nhỏ sĩ dân Bắc Hà. Nhưng hầu như dư âm, vang bóng nhà Lê chỉ là cái cớ. Nhà Lê, một triều đại ngót hai trăm rưỡi năm (1556 – 1789) trung hưng chỉ là bù nhìn trong tay ngụy chúa họ Trịnh! Nếu thật tâm hoài Lê, sao sĩ dân Bắc Kì không nổi dậy đánh đổ họ Trịnh, để phục hồi quyền lực thực sự cho vương triều do Lê Thái Tổ sáng nghiệp trong sự nghiệp vĩ đại đánh đuổi giặc Minh phương Bắc, giành độc lập cho Tổ quốc? Không, sĩ dân Bắc Kì thật tâm không hoài Lê! Mặc dù họ thừa biết chúa Trịnh chỉ mượn danh phù Lê để thâu tóm hết quyền hành vào phủ chúa, họ vẫn dửng dưng! Có lẽ sĩ dân Bắc Kì thây mặc các triều vua, triều chúa, họ chỉ muốn kinh đô mãi mãi là Thăng Long chứ không phải tỉnh Hà Nội, và sĩ dân Bắc Hà mãi mãi được trọng dụng, không bị phân biệt đối xử! Quan huyện Nguyễn Văn Tường còn thừa hiểu sự xung đột ngấm ngầm giữa Đàng Trong với Đàng Ngoài sau hai trăm năm chia cắt. Ông lặng lẽ suy nghĩ, không muốn chia sẻ với ai điều này. Ông chua chát mỉm cười, tự bảo: “Tả đạo”, hoài Lê không phải là nỗi niềm tôn giáo, trung quân chân chính, đích thực, cũng không phải là hậu quả do sự áp bức của triều Nguyễn, đặt cán cân sưu cao thuế nặng dồn hẳn về phía Bắc Kì! Có phải như vậy không? Quan huyện Nguyễn Văn Tường nhớ mãi câu nói của tiên đế Gia Long khi ban lời cho nhà thơ Nguyễn Du: “Nhà nước dùng người, chỉ cần người hiền, vốn không phân biệt Nam, Bắc; ngươi cùng với Ngô Vỵ đã được đối đãi hậu, làm quan đến á khanh, nên [điều] biết thì phải nói, để hết chức phận, há nên do dự rụt rè, chỉ cốt dạ vâng làm gì”(6). Nhưng Nguyễn Du vốn mặc cảm bất trung với nhà Lê, lại kiêu ngạo, tự phụ về tài thơ mặc dù mới đỗ tam trường (tú tài). Phải chăng bên trong thâm tâm là vậy, tuy bề ngoài tỏ vẻ kính cẩn, sợ hãi không nói được nên lời? Thi hào ấy luôn luôn u uất, bất đắc chí, cho dù được phong đến Cần Chánh điện đại học sĩ! Ồ,… Tể tướng (tham tụng) Nguyễn Khản (7), anh ruột Nguyễn Du, thờ vua Lê hay thờ chúa Trịnh? Nguyễn Du hoài Lê hay hoài Trịnh?… Có phải như vậy không? Và cử nhân Phan Huy Vịnh, mới đây, làm quan triều Nguyễn đến chức gần tột bậc, tham tri! Phan Huy Chú không đỗ đạt gì, vẫn được gọi bổ nhiệm (8). Như thế là thế nào? Sao cử nhân Cao Bá Quát lại thế? Có phải như vậy không? Cao Bá Quát đã phạm tội dùng muội đèn chữa bài cho sĩ tử, phải án chém, lại được xét tha. Sao lại khởi nghịch? Bất mãn vì tài cao phận thấp (9)? Nguyễn Văn Tường hiểu rằng có những cuộc nổi dậy được sử gia ca ngợi, nhưng cũng có cuộc khởi binh bị các nhà sử luận lên án. Liệu giai đoạn lịch sử này có yêu cầu phải nổi dậy như thế với chiêu bài hoài Lê, phù Lê? Hai câu

“Bình Dương, Bồ Bản vô Nghiêu, Thuấn
Mục Dã, Minh Điều hữu Vũ, Thang”

Bình Dương, Bồ Bản không Nghiêu, Thuấn
Mục Dã, Minh Điều, có Võ, Thang


trên ngọn cờ phù Lê của Cao Bá Quát, liệu có tự mỉa mai không? Tại sao không đánh đổ chúa Trịnh ức hiếp vua Lê đến ngót hai trăm rưỡi năm, bè lũ đã biến vua Lê thành con sâu xanh trong tổ tò vò? Cao Bá Quát sinh ra đời muộn đến năm, bảy mươi năm ư?
- Hình như có tiếng vó ngựa!
Viên thông lại Nguyễn Công Đạo hốt nhiên nói, tay nắm vào chuôi gươm, khiến chuỗi suy tưởng của quan tri huyện trong cái nhìn xa xăm phải bất giác ngừng lại.
- Ta thuộc tiếng vó của từng con ngựa! Yên tâm. Không phải ngựa của bọn phỉ Lào và phỉ Xiêm đâu, cũng không phải ngựa của bọn Hồng Mao (Anh-cát-lợi) Tây dương! Tiếng vó ngựa nhà đấy! – Phó quản cơ Nguyễn Bằng ung dung mỉm cười –.
Quả thật, từ phía tây, nơi thành luỹ của huyện, trên con đường mòn độc đạo, một bóng ngựa đang phi nước đại về hướng ba người. Khi nhận rõ, đó là một người lính định biên thuộc huyện, quan huyện cười sảng khoái. Ông nói lớn:
- Quan phó quản đúng là nhà võ nòi! Ta thật lòng cảm phục! Nghe tiếng đàn, tiếng thơ đến mức vi diệu là hiếm, còn quan phó quản nghe tiếng vó ngựa đến mức tinh tường siêu việt như vậy quả là độc nhất vô nhị!
- Quan huyện quá khen! Xin đa tạ. – Phó quản Nguyễn Bằng đan tay xá –.
Viên lính định biên vội nhảy xuống ngựa, thi lễ và bẩm báo:
- Thưa, quan huyện có khách. Hình như người trong kinh đô Huế…
- Ai đến tìm ta ở chốn sơn lam chướng khí này?
- Bẩm, tiểu tốt không được cho biết danh tính…
- Lần sau, nhớ gặn hỏi cho ra danh tính, mới bẩm báo nghe!
Bốn người lên ngựa, phi về thành huyện, trong cái nắng tháng chín chói rực, lúc gần giờ ngọ. Dọc đường, bầy khỉ chạy ra khọt khẹt chơi đùa, nhác thấy bóng ngựa, chúng vụt biến vào rừng rậm.
Thành huyện Thành Hoá đóng ở xứ Động Ngang. Thành bằng đất, đắp cao đến sáu thước năm tấc ta, dày một trượng, chu vi một trăm ba mươi tám (138) trượng lẻ. Hào bốn xung quanh rộng một trượng, sâu năm thước ta. Thành có ba cửa, mở ra ba phía (10). Phi ngựa từ đằng xa, nom thấy thành luỹ cũng đầy vẻ uy nghiêm. Bốn người đang cho ngựa chạy nước đại, theo con đường dẫn về Động Ngang.
Họ về đến thành huyện, cho ngựa phi lên cầu dài hơn một trượng bắc qua hào, vào cửa tiền. Hai viên lính đứng hai bên, cầm giáo sáng quắc, lưng gần sát với cửa thành được xây bằng gạch đá, thoắt ở trong tư thế nghiêm chào.
Trao dây cương ngựa cho người lính phụ trách, quan tri huyện Nguyễn Văn Tường bước lên tam cấp, vào tiền sảnh của công đường. Lát sau, người khách được đưa vào gặp ông. Hoá ra, thật không ngờ, “người từ kinh đô ra” lại là Trần Đình Túc.
- Hết sức ngạc nhiên, cũng rất ư chi là vui mừng! Xin chào quan quản đạo Phú Yên! – Quan huyện Tường cười rất tươi –.
- Xin chào! Thôi, đừng bày ra sự khách khí nữa! Chúng ta vẫn như ngày nào, thuở còn học hành thi cử. – Sau khi đan tay chào, quan nguyên quản đạo Trần Đình Túc mỉm cười nói –.
Ông ngồi xuống trường kỉ, đặt ngay giữa tiền sảnh, ở phía trước án thư và cách án thư một khoảng rộng.
Nguyễn Văn Tường ngồi đối diện với bạn. Ông thấy người bạn lớn hơn ông đến mười sáu tuổi vẫn như cách đây mười ba năm, tuy có già dặn hơn xưa, tóc đã chớm bạc. Tính từ kì thi hương năm ông mười tám tuổi, bị tội đồ vì tên trùng với quốc tính không chịu đổi, cũng là kì hương khoa Túc đỗ hương tiến (cử nhân), đến nay cũng ngót ngét mười ba năm rồi còn gì! Trần Đình Túc đã trải qua tri huyện Bất Bạt, tận ngoài Sơn Tây, lại thăng chủ sự Bộ Hộ, rồi được bổ tri phủ Vĩnh Tường cũng ngoài Bắc, tiếp đến về kinh làm viên ngoại lang Bộ Binh, trước khi đảm nhiệm chức thự quản đạo Phú Yên (11)! Trần Đình Túc cũng đã bốn mươi bảy tuổi!
- Nghe tin ông anh xin về quê một thời gian để phụng dưỡng cha mẹ già yếu, cho trọn chữ hiếu, nhưng mình không biết cách nào để rời khỏi chốn này mà khỏi bị trách cứ. Cách đây bốn, năm tháng, khi đưa một số dân dinh về giúp cho huyện Triệu Phong đào sông từ làng Vệ Nghĩa đến làng Đại Hào (12), mình định quay ra Hà Trung, Do Linh thăm hai cụ và ông anh, nhưng rồi vẫn không đi được. Thật đáng trách! Nay đang tìm dịp, thế nào cũng phải ra Hà Trung, lại may mắn được ông anh trèo núi vượt non lên thăm!
- Đường sá không đến nỗi chi, cũng không mệt nhọc gì! Lại may là nhà có ngựa, cũng rủ vài đứa gia nhân cùng đi. Trước là đi thăm, sau nữa cũng đi cho biết.
Hai người bạn ngồi chuyện trò, nhắc lại chuyện cũ học trò, và không thể không bày tỏ những suy tư về thời cuộc.
- Bây chừ, phủ doãn Thừa Thiên kiêm Quảng Trị mình là Nguyễn Văn Phong, còn Vũ Trọng Bình đã ra Bắc, lãnh tuần phủ Hưng Yên (13)! Ông anh có biết tin gì ở Hưng Yên không?
- Vũ Trọng Bình mới được thưởng vì dẹp được tàn quân Lê Duy Cự. Hậu duệ nhà Lê này bị án chém từ tháng tư năm Ất mão (1855) năm ngoái (14). Cao Bá Quát khởi nghịch vào tháng tám, sau bốn tháng, cũng đã chết từ cuối mùa đông Giáp dần (1854) năm kia (15)!
- Tin đó triều đình cho thông tư khắp nước! – Quan huyện Tường vừa căm giận vừa luyến tiếc –. Thật uổng cho một nhà thơ có tài, nhưng hành xử kiêu căng và chỉ gây rối việc thêm cho Đất nước! Đất nước đang đương đầu với “tả đạo” Tây dương, nội phản, lại chuẩn bị đối phó với thực dân Phú Lãng Sa (France), Y Pha Nho (Espagnol), Hồng Mao (Anh Cát Lợi, England), Mỹ Lợi Kiên (US. America)… Những kẻ như Cao Bá Quát chỉ gián tiếp làm lợi cho bọn Tây dương xâm lược!
- Ồ, còn bọn thổ phỉ Tàu, hải tặc Tàu! Bọn giặc khách ấy ghê gớm lắm! Chú chưa ra Bắc, nên chưa rõ đó thôi! Bọn “tả đạo” cũng như ong, như rươi! “Tả đạo” ở Quảng Trị mình ăn thua chi! Ngó rứa nhưng các xứ theo “tả đạo” Quảng Trị chưa hề khởi nghịch bằng vũ trang! Ở Bắc, đã bắt được mấy tên quân sư của bọn chúng là người Tây… Hóa ra, bọn Tây nhúng tay vào cả vụ Đinh Bảo (Hồng Bảo)! Lần gần đây nhất, chính quan kinh lược đại sứ Nguyễn Tri Phương khám phá, bắt được thuộc hạ Đinh Bảo. Đinh Bảo tự xé vải mùng thắt cổ nơi trại giam, Đào Trí Phú bị lăng trì xử tử!
- Hồi sáng nay, cùng với viên phó quản cơ Định biên và thông lại, tôi cũng có bàn luận với nhau chuyện này! Thật là thời cuộc quá căng thẳng! Ông anh làm quan ngoài Bắc, trong Nam, lại có thời gian ở kinh đô, nên rõ ràng những gì ta nói với nhau đây không phải tin tức đồn đãi vô căn cứ, gây nhiễu. Tôi thấy vận nước quả là đáng âu lo! Súng thép, tàu đồng, mưu ma, đạo quỷ… Người Việt tàn hại lẫn nhau chỉ thêm suy yếu nội lực Đất nước…
- Tháng trước, Phú Lãng Sa lại sinh sự ở cửa biển Đà Nẵng, ném một phong thư gọi là “xin thông thương” lên bãi cát, nhưng nội dung lại de doạ gây chiến (16). Cũng tháng chín Bính thìn (1856), Tự Đức năm thứ chín này, Phú Lãng Sa lại đưa thư yêu sách, khiêu khích ở cửa biển Thuận An (17)! Thật quá quắt!
- Đúng là bọn Tây dương thật quá quắt! Phong trào Thái Bình thiên quốc của Hồng Tú Toàn bên Tàu cũng do bọn Tây giúp súng đạn, phải rứa không (18)? Tháng chín, cũng năm nay, sứ bộ ta đáo lệ lại sang, nhưng tắc đường, phải hoãn. Ba, bốn năm trước, sứ bộ Phan Huy Vịnh cũng phải kẹt đến ba năm mới về nước được. – Nguyễn Văn Tường chợt ngừng lại –. Anh có hay tin ất phó sứ Nguyễn Hữu Huyến, con trai thứ của cụ thượng thư, nhà lịch pháp, toán học Nguyễn Hữu Thận (người Hải Lăng), đi sứ năm Tự Đức thứ năm (1852), khi về, đã chết vì nghẽn đường do Thái Bình thiên quốc chưa (19)?
- Chú ở nơi đồn ải heo hút này lại thạo tin tức hơn cả tôi!
- Khách thương Nam – Bắc, miền xuôi miền ngược đâu vắng bóng ở xứ này! Cũng may là còn có những vị khách kinh lịch như ông anh. Vả lại, tôi vẫn thỉnh thoảng về dinh quản đạo, vào làm việc với phủ thần kinh sư… – Quan huyện Nguyễn Văn Tường mỉm cười, gương mặt vẫn còn nét băn khoăn –. Uống trà đi ông anh, để còn dùng cơm canh quê kiểng nữa chứ…
Hai người bạn bỗng lặng im nghĩ ngợi, trong khi mâm cơm đã được hầu cận xin phép để được bưng lên. Họ chợt thấy chuyện quốc sự trong thời điểm này không thể nào rời khỏi tâm trí.
Dẫu vậy, trong những ngày Trần Đình Túc ở lại Thành Hoá này chơi, họ đã trao cho nhau đọc những tập thơ của mình, và cùng nhau ngâm vịnh. Nguyễn Văn Tường có đến ba thi tập, sáng tác từ năm mười bảy tuổi đến nay.

2

Trong năm Tự Đức thứ chín, Ất mão (1856), trước dịp Trần Đình Túc lên huyện Thành Hoá thăm, Nguyễn Văn Tường đã có hai lần cùng với đồng sự được triều đình khen thưởng. Lần tháng ba theo lịch mặt trăng, ông được thưởng một thứ kỉ lục (20). Lần tháng tám, lại một thứ kỉ lục sau khi ông đã được thăng thực thụ tri huyện (21). Nhưng niềm vui lớn nhất, đó chính là đã cứu giúp được những con người ông thương mến.
Hôm ấy, ở công đường của huyện, một người đàn bà khóc rưng rức vì không dám khóc lớn. Bên cạnh bà là người chồng phờ phạc và buồn khổ. Họ đã đi tìm đứa con mới ba tuổi bị bắt cóc khắp những nơi có thể đi. Cùng đường, họ lần mò lên đây, xin các quan thuộc huyện giúp đỡ. Lập tức quan tri huyện Nguyễn Văn Tường gọi lính định biên và các thuộc cấp vào bàn bạc.
Ở huyện Thành Hoá, có chín châu người nhân tộc thiểu số: Mường Vang, Na Bôn (Sê Bôn), Thượng Kế, Tầm Bồn, Mường Bổng, Ba Lan, Tá Bang, Xương Thịnh, Làng Thìn. Đó là chín châu ki mi được triều đình chủ trương cho hưởng chế độ cởi mở, không ràng buộc chặt chẽ như người Kinh (22). Có một khó khăn chung nhưng khó khăn ấy trở nên thậm tệ đối với các châu ấy, đó là thiên tai dịch bệnh. Mất mùa, đói kém, dân các sách, các chiềng phải xiêu tán, có khi phải chạy đói, trốn con ma đói, qua tận xứ Lào. Dịch thổ tả và các dịch bệnh khác lây lan, họ cũng phải xiêu tán, chạy bệnh, trốn con quỷ bệnh, qua tận xứ Xiêm. Nhân số cứ hao mòn, thất lạc dần. Hai châu Mường Vang, Na Bôn đông dân nhất, mỗi châu khoảng hai ngàn người, nhưng bị hao mòn, xiêu tán, có thời điểm chỉ còn vài chục, vài trăm! Sinh nhiều, trẻ nuôi được lại ít. Sinh suất nhiều, tử suất ở lứa tuổi già lại cao hơn! Do đó, đồng bào nhân tộc rất thích nuôi trẻ đã hai, ba tuổi. Có người cho trẻ, bán trẻ, họ mừng rỡ, lập tức xin ngay hoặc mua, hoặc đổi chác liền tay bằng hiện vật.
Quan huyện Nguyễn Văn Tường cho lính và thuộc cấp xuống các châu, không quên dặn dò phải tìm gặp các thổ tri châu, các già làng trước, và vạch phương án đối phó với nạn giấu trẻ vào rừng. Chính quan huyện cũng lên ngựa đến vài châu có khả năng mua trẻ nhất.
Sau vài ngày, quan huyện nắm rõ: Nguyễn Quyền, tên côn đồ người Kinh đã bị bắt nhiều lần ở các huyện khác, cũng nhiều lần lọt lưới, lần này lại tiếp tục bắt cóc trẻ con bán cho đồng bào Thượng. Y đã bị lính định biên bắt được, đang giải về. Đứa con của hai vợ chồng người Kinh dưới xuôi đã được tìm ra. Cả hai mừng trào nước mắt, tạ ơn các quan huyện đến nghẹn lời.
Quan tri huyện Nguyễn Văn Tường biết mình gặp phải một nỗi đau chung. Một trận dịch quét qua, cả làng, cả huyện ở các xứ người Kinh trắng màu vôi bột sát trùng, cũng trắng màu tang chế chết chóc. Triều đình chẳng phải đã nhiều lần ban dụ khuyến khích sinh đẻ đó sao? Chẳng phải nơi nào sinh sôi, cư dân ngày một đông vui, quan sở tại sẽ được trọng thưởng đó sao?
Một lần vào dịp tháng tám nguyệt lịch, phủ thần Thừa Thiên Nguyễn Văn Phong vui mừng tâu lên đức vua Tự Đức: Huyện Thành Hoá của Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Bằng, Nguyễn Công Đạo đã chiêu phủ đồng bào thiểu số xiêu tán trở về thành công. Họ phải qua tận Lào thuyết phục dân, phải tổ chức nơi sinh sống để đón dân chạy con ma đói, trốn con quỷ bệnh trở về. Lần này, công lao khó nhọc của thông lại Nguyễn Công Đạo là lớn nhất. Ông được thăng thưởng thực thụ lại mục.
Và mùa xuân, tháng giêng Đinh tị (1857), năm Tự Đức thứ mười, trong những ngày còn vương vấn tiết trời lành lạnh và không khí nồng ấm của Tết Nguyên đán nơi huyện miền núi bạt ngàn hoa cỏ này, quan tri huyện Nguyễn Văn Tường đã lặn lội cùng chàng trai người nhân tộc Lâm Ngô, con của thổ tri châu Lâm Kiềm, thuyết phục được hai trăm bảy mươi (270) người thiểu số Vân Kiều đói rét, xiêu tán trở về để hưởng cái Tết muộn. Quan huyện đã chuẩn bị thịt tươi, dưa món, bánh tét, bánh chưng và dĩ nhiên, cái không thể thiếu được, là những ché rượu cần để hâm nóng câu chuyện, những thanh củi khô nỏ để dành cho các bếp lửa. Ông cũng đã viết tập đệ trình lên phủ doãn kinh đô Đỗ Quang theo ý nguyện của thổ tri châu Lâm Kiềm: Lâm Kiềm đã già yếu, xin trao lại chức cho con trai là Lâm Ngô. Phủ doãn họ Đỗ, người làng Phương Điếm, huyện Gia Lộc, ngoài Bắc, đã thay phủ doãn trước là Nguyễn Văn Phong, cũng vui mừng thông tư: Vua Tự Đức đã chuẩn y cho.
Trong những ngày tháng giêng vất vả, rét mướt và nồng ấm đó, viên phó quản cơ Định biên Nguyễn Bằng, một người có giác quan quân sự bén nhạy, luôn luôn song hành, góp sức đắc lực cho quan tri huyện. Họ được vua Tự Đức thưởng mỗi người ba tháng lương để cùng dân hồi hương hưởng Tết muộn (23).
Ngoài chín châu mường ki mi, ở Thành Hoá còn có một số buôn làng không phải là châu thuế dân, mà thuộc loại châu hoặc sách cống dân. Các châu làm nghĩa vụ thần dân là nộp thuế, gặp khi đói rét, dịch lệ sẽ được chẩn cấp. Đó là các châu mường. Các châu bạn (sách bạn) không phải là cộng đồng thần dân, họ chỉ chịu cống lễ theo hạn định, không có nghĩa vụ gì, cũng chẳng có quyền lợi gì. Họ được xem ở ngoài cõi giáo hoá của triều đình!
Ba tháng sau, tri huyện Nguyễn Văn Tường và phó quản cơ Nguyễn Bằng phái thí sai tri bạ Trần Hựu đến châu bạn Ba Ngạn giáp giới đất Lào để gặp Âm Bôn, trưởng châu, bàn bạc. Âm Bôn đồng ý thần phục triều đình và hiến một con voi dạy đã thuần, còn hứa sẽ tiến cống hàng năm. Ba trăm lẻ bốn (304) người thiểu số châu Ba Ngạn đều trở thành thần dân ki mi. Vua Tự Đức nghe tin, rất vui mừng và thưởng Âm Bôn cùng các dịch mục hàm chức, áo quần, tiền bạc, lại chỉ thị cho quan quản đạo mời yến ẩm, đồng thời cho giảm lệ cống, từ hằng năm xuống ba năm một lần. Kỉ niệm ấy đối với Trần Hựu còn là dịp được thăng thực thụ, đối với Nguyễn Văn Tường và Nguyễn Bằng là mỗi người hai thứ kỉ lục (24).
Hai tháng sau, vào tháng năm nguyệt lịch, chàng trai thổ tri châu Lâm Ngô và cha lại cung tiến một thớt voi (25)!
Nguyễn Văn Tường và các đồng sự cảm thấy tình cảm gắn bó giữa người Kinh, người thượng du Vân Kiều, Pa Kô, Tà Ôi… ngày càng thắm thiết. Đối với tri huyện Nguyễn Văn Tường, những cánh rừng, quả núi thâm u, kì bí ở Thành Hoá (Cam Lộ, Hướng Hoá, Đắc Krông…) đã thực sự không chỉ là vùng đất của kỉ niệm thời thơ ấu, mà đích thực là quê hương thứ hai của ông.

“Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu
Hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”

Lo toan trước cái lo toan của nhân dân
Vui mừng sau cái vui mừng của nhân dân (26)


Kẻ sĩ, nhà nho nhập thế, dấn thân tham dự vào chức trách chính quyền, kinh điển Nho giáo chẳng từng khuyên dặn như thế đó sao? Nguyễn Văn Tường tiếp thụ kinh điển theo cái tình, cái tâm riêng của ông.

3

Một ngày cuối tháng mười một, ở vùng rừng núi này, mưa cứ lâm thâm kéo dài, gió lạnh cóng cả cây cỏ. Quan tri huyện Nguyễn Văn Tường ngồi sau án thư, nhìn ra khoảnh sân trước công đường, trông những làn mưa bay trên cội mai già đã trụi lá, trên những chậu cúc xanh mượt đang chờ nắng để trổ nụ, bừng hoa.
Thỉnh thoảng, ông cúi xuống, đưa đầu bút lông vào nghiên mực nho đặc sánh, vê nhẹ. Ngón giữa và ngón cái cặp vào thân bút, ngón trỏ tì nhẹ vào chỗ gần cán bút, ông viết những dòng thơ.
Đang ngập ngừng tìm một chữ cho thật đắt, thật đắc địa, ông trông thấy hai người lính choàng áo tơi, cầm giáo, dẫn hai người khác, thoắt trông thấy là đoán được ngay: phạm nhân tội đồ.
Một người lính định biên của huyện, sau khi cởi áo tơi, cất nón, bước vào, hai tay cầm ống tre sơn đỏ đựng công văn. Anh ta thi lễ, trình báo:
- Bẩm quan huyện, tỉnh Quảng Bình, phủ Thừa Thiên và đạo Quảng Trị đã thừa lệnh thi hành án. Lính kinh phủ và lính dinh quản đạo mới giải giao hai tên phạm đã chịu phạt trượng lên đây kèm theo công văn của Ty Tam pháp ở kinh. Viên lính thuộc đạo Quảng Trị làm nhiệm vụ giải giao đang chờ lệnh.
- Đưa ta xem.
Quan huyện Tường mở dấu khằng, lấy tờ giấy có ấn triện, đọc và thoáng nghĩ ngợi.
- Bảo chúng vào đây.
Trong khi chờ họ thi lễ, trình báo, quan tri huyện nhận thấy hai kẻ phạm pháp này đúng là mặt trắng học trò. Theo công văn, họ không phải mắc các tội thường phạm.
- Các ngươi quê quán ở đâu, tại sao phạm pháp? – Thừa biết, nhưng quan huyện cứ hỏi để nghe cung cách trả lời của họ và xem xét thêm một vài khía cạnh khác –.
- Dạ, bẩm quan, chúng tôi người chính gốc làng Tiên Lễ, làng Lệ Sơn, đều thuộc huyện Minh Chính, tỉnh Quảng Bình ạ (27). – Giọng nói yếu ớt –.
- Làm gì mà lại can phạm? – Quan huyện từ tốn hỏi –. Một án lại đến một trăm trượng, đồ ba năm! Một án lại chín chục trượng, đồ hai năm rưỡi! Tại sao?
Người phạm nãy giờ im lặng bỗng lên tiếng:
- Bẩm, dạ thưa quan huyện, chẳng qua là cũng muốn góp lời, góp tâm huyết, kính mong được hoàng thượng cải đổi chính sách ruộng đất để yên dân, để chống Tây, chống “tả đạo” thôi… Dạ, nào ngờ… – Giọng anh ta run run, có lẽ do một trăm trượng đã lãnh, vết sưng nhức chưa khỏi –.
- Hai ngươi là học trò? Tâu lên hoàng thượng những gì?
- Dạ, bẩm quan, lũ học trò chúng tôi chỉ dám viết đơn phong kín tố cáo người trong hạt ngầm theo bọn ngoại quốc, mưu làm việc phi pháp. Kính xin nói rõ hơn, nội dung thế này: Xét thấy người giàu, kẻ nghèo mức sống, tài sản không đều nhau. Do thực trạng đó nên các đạo trưởng Gia Tô đã đem chuyện hoạ phúc trên trời, dưới đất, còn gọi là thiên đường, địa ngục, để lừa bịp người giàu, lấy tiền bạc gạo cơm của họ, rồi đồng thời, lại lấy tiền gạo dụ dỗ ấy mà mua được, dùng được công sức kẻ nghèo. Từ nhận thức về sự thực đó, chúng tôi xin đức vua lập ra phép chia ruộng bình quân. Nếu thi hành phép chia ruộng bình quân thì người giàu, kẻ nghèo đều nhau về tài sản, về mức sống. Và nhờ vậy, người nước ngoài không thể dẫn dụ dân ta được (27). Dạ, bẩm quan, chỉ có như rứa thôi ạ. – Anh ta thưa, có nhiều lúc như đứt hơi vì mệt –.
Quan huyện Nguyễn Văn Tường hơi giật mình, nghe như có một luồng điện chạy dọc sống lưng. Ông nhận ra ngay, đó không phải là kiến nghị tầm thường, tuy đâu dễ gì thực hiện! Ông cũng kinh ngạc khi nghe thấy và chính mắt đọc các dòng chữ bên cạnh bản án của họ: “đem lời góp nhặt để cầu tiến là tội nhẹ, lừa dối [về thực trạng giàu, nghèo…] là tội nặng, không thể không trừng trị được” (27) . Đó lại là lời châu phê của nhà vua trên cơ sở bản xét nghĩ của Ty Tam pháp! Dẫu sao, cũng đúng như hai người học trò kia nói, họ chỉ góp lời, góp tâm huyết.
- Thế giới đại đồng trong thiên Lễ ký của kinh điển Nho giáo ư?… Lí thuyết đại đồng xã hội viễn tưởng (chủ nghĩa xã hội không tưởng) bên Tây Âu ư? Lễ ký thì các người đều học. Có phải các ngươi nghe các khách thương nói về đạo Cơ Đốc (Christ, Tin Lành) biến tướng, pha trộn với lí thuyết đại đồng xã hội viễn tưởng (chủ nghĩa xã hội không tưởng) ở Hồng Tú Toàn và Thái Bình thiên quốc bên nước Thanh? Hay chỉ nghe nói về lí thuyết đại đồng xã hội viễn tưởng (chủ nghĩa xã hội không tưởng) bên Tây Âu? Các ngươi chắc đã biết, phe phái vương tướng Hồng Tú Toàn, khởi đầu được Phú, Hồng Mao viện trợ, nhưng nửa chừng chúng lại bỏ rơi, xoay qua giúp nhà Thanh? Bây giờ nội bộ triều đình Thái Bình thiên quốc cũng đã chia rẽ, sát hại lẫn nhau, đang dần dần biến chất thành phỉ…
- Dạ, bẩm quan huyện, lũ học trò chúng tôi chỉ nhìn thấy thực trạng và suy nghĩ, mạo muội kính tâu kiến nghị thôi, chứ ở quê kiểng có sách nhiều mô mà đọc, khách thương cũng ít người lai vãng…
- Tại sao bản sao trích lục giải giao cải huấn lại ghi rõ là “góp nhặt”? – Quan huyện Tường chìa mấy tờ giấy –. Thôi… Được rồi, ta đã hiểu tội trạng… Các ngươi cứ yên tâm. Bây giờ cho ta biết: Ai là Lương Trợ Lý? Ai là Hoàng Hữu Phu (27)?
Người trình bày khá cặn kẽ về nội dung tập đơn phong kín kia chính là Lương Trợ Lý. Trong hai người, Lương Trợ Lý là kẻ bị phạt với mức án cao nhất.
Nhìn kĩ gương mặt trẻ trung học trò của họ một lần nữa, quan huyện Nguyễn Văn Tường ôn tồn bảo:
- Các ngươi nhớ chấp hành án tốt, có thể sẽ được tâu xin giảm án. Nhớ chấp hành thật tốt đấy! Thôi, theo người lính kia về trại giam. Ngày mai ta sẽ xét… Lát nữa, sẽ có người mang thuốc đến để tẩm, bóp vào chỗ sưng nhức!
- Xin đa tạ quan huyện ạ… – Giọng nói của họ có chút vui mừng, hơi nghèn nghẹn –.
Tại sao? Tại sao lại trừng phạt hai viên học trò đầy tâm huyết kia, cho dù biện pháp bình quân ruộng đất là rất khó khăn?
Sau khi bảo viên thư lại làm tờ biên giải giao và tiếp nhận với tên thuộc lại đạo Quảng Trị, quan huyện Nguyễn Văn Tường ngồi lặng lẽ đọc lại những giòng chữ bản sao trích lục án trong tập lưu cải huấn phạm nhân, ông thừ người suy nghĩ. Ông đứng dậy, bước tới khung cửa, nhìn ra ngoài sân. Mưa đang lất phất bay, lạnh buốt.
Không, ông tự nhủ, bây giờ cái chính là suy nghĩ cách đối phó với bọn thực dân Phú Lãng Sa, bọn “tả đạo” giả mạo tôn giáo! Ông cũng mới vừa nghe tin, ở Hưng Yên, Nam Định, cuối tháng mười một năm Tự Đức thứ mười (1857) này đây, bọn giặc theo đạo Gia Tô đang quấy nhiễu (28)!

Truyện kí thứ ba (còn tiếp)

Viết đến dòng chữ này lúc 11 giờ kém 13 phút,
ngày 27. 08. 2002
(mười chín tháng bảy Nhâm ngọ,
năm thứ hai công nguyên Hoà Bình).


TRẦN XUÂN AN

(1) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên (ĐNTL.CB.), tập 27, sđd., tr. 423; Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa (NĐNĐDVP. & TH.), sđd., tr. 170 – 178.

(2) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 9 – 10.

(3) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 60 – 61.

(4) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 62 – 82.

(5) Xem chú thích (34).

(6) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện (ĐNLT.), tập 2, sđd., tr. 336.

(7) Viện Văn học, Từ điển văn học (TĐVH.), tập 1, sđd., tr. 129.

(8) ĐNLT., tập 3, sđd., tr. 344 – 345.

(9) ĐNLT., tập 4, sđd., tr. 510 – 512.

(10) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí (ĐNNTC.), tập 1, sđd., tr. 118.

(10) ĐNLT., tập 4, sđd., tr. 235 – 238.

(12) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 253.

(13) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 202.

(14) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 112.

(15) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 84 – 85.

(16) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 275 – 277.

(17) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 282 – 283.

(18) Phan Khoang, Trung quốc sử lược (TQSL.), ấn quán Hồng Phát, Chợ Lớn, 1958, tr. 353 – 368, tr. 376.

(19) ĐNLT., tập 2, sđd., tr. 447 – 450

(20) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 217.

(21) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 271.

(22) ĐNNTC., tập 1, sđd., tr. 103 – 109.

(23) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 314 – 315.

(24) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 324.

(25) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 335.

(26) Vũ Đức Sao Biển, bài “Đọc thơ Nguyễn Văn Tường”, trong Nhóm chủ chiến triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường (NCCTĐH. & NVT.), kỉ yếu Hội nghị Khoa học lịch sử, ĐHSP. TP. HCM., 20.6.1996, tr. 72. Xin xem thêm: Trần Xuân An (biên soạn), Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, thơ, vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng (PCĐT. NVT., VNVCN., TH. & TT.), bản in vi tính, 2000 (chưa có điều kiện xuất bản). Thơ Nguyễn Văn Tường, do hậu duệ sưu tập, chỉ còn lại 65 bài.

(27) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 381 – 382.

(28) ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 384, 38, 392…

TXA.

Hết phân đoạn 1
truyện kí thứ ba
(còn tiếp)

XIN XEM TIẾP TỆP 5
phân đoạn 2
trọn
truyện kí thứ ba

TỆP 3 - Tập I
Truyện kí thứ hai

Đã đăng trên Tạp chí điện tử Giao Điểm
số tháng 11-2005
http://www.giaodiem.com/
mluc/mluc_IV05/1105_txa_ky2.htm




TRẦN XUÂN AN

NGƯỜI THẦY THUỐC
– THẦY GIÁO TRẺ TUỔI


Truyện kí thứ hai


1

Người đàn ông khoảng năm mươi tuổi, dáng vẻ tiều tụy, gương mặt tái xanh đầy vẻ bệnh hoạn, dè dặt ngồi xuống chiếc ghế trường kỉ bằng gỗ cũ đã lên nước nhưng không một đường nét chạm trổ, sau khi đan tay xá chào vị thầy thuốc trẻ tuổi.
- Bác cứ tự nhiên. – Thầy Tường nhìn người bệnh, ân cần nói –.
Thầy Tường giấu cái giật mình, khi trông thấy một bên má, chỗ gần vành tai, hai chữ “tả đạo” bị khắc xăm rõ nét. Anh cố giữ cái nhìn đừng có vẻ soi mói để người “dữu dân” ấy khỏi chạnh lòng.
- Bác thấy trong người ra răng?
- Dạ, bẩm thầy, không ngủ được, cũng không ăn được nhiều.
Thầy Tường nhìn vào đôi mắt ông ta, trông hơi lờ đờ. Anh lại hỏi các triệu chứng bệnh.
- Bác cho tôi xem mạch.
Vén cổ tay áo, người bệnh duỗi ngửa cánh tay trên mặt bàn. Ngón trỏ và hai ngón kế đặt vào mạch, ngón thứ tư là ngón cái kềm phía dưới cườm, thầy Tường lắng nghe, tất cả tinh thần đều tập trung vào cảm giác ở đầu ba ngón tay. Anh khẽ nhíu mày suy nghĩ.
- Bác bị bệnh đã khá lâu, sao không sớm chữa chạy!
- Dạ, bẩm thầy, tôi bị phân tháp. Bệnh, yếu quá, may mới được phóng thích.
Thầy Tường ái ngại, không biết nói gì. Sau khi đã nhìn sắc diện, hỏi triệu chứng, bắt mạch, người thầy thuốc trẻ nhưng rất có uy tín ở huyện lị Đăng Xương này cầm ngọn bút lông kê đơn.
- Bác qua quầy kia lấy thuốc. – Thầy Tường đưa phái thuốc cho người bệnh –. Uống thuốc và nhớ thắp hương cho ông bà tổ tiên.
Người đàn ông hơi chạnh lòng, đứng dậy, đan tay chào, không nói gì.
- Bác nhớ đó, phải vừa uống thuốc, vừa thắp hương cho ông bà tổ tiên. Quên uống thuốc hoặc quên ông bà tổ tiên thì không lành bệnh được đâu! Xin thành khẩn với bác như thế. – Với tấm lòng của một nhà nho trẻ lỡ vận trên đường khoa cử, thầy Tường khẽ nói –.
Người đàn ông bị gọi là “tả đạo”, “dữu dân” đã hiểu ý. Ông ta lặng thinh làm dấu thánh, trong khi quay bước, chầm chậm tiến tới chỗ quầy thuốc bắc, thuốc nam. Phía sau quầy, trước một dãy kệ để đầy các thùng thiếc, hộp gỗ, hũ sành, thẩu thuỷ tinh có dán những mảnh vuông giấy điều, trên đó viết chữ Hán, chữ Nôm bằng mực xạ đen, là một cụ già quắc thước, mái tóc đã thưa với búi tó đã nhỏ lại, bạc trắng.
Thầy Tường ái ngại nhìn theo người bệnh ấy. Rồi anh lại tiếp tục bắt mạch, kê đơn cho người bệnh tiếp theo.
Sau bốn năm trời miệt mài, say mê học y lí về người và bệnh, học dược tính các loại thuốc, đồng thời học kinh nghiệm điều trị qua thực tiễn hằng ngày với những thầy thuốc già ở Huế, Tường đã trở thành một lương y trẻ nổi tiếng ở quê nhà. Sáu tháng nay, anh ở hẳn trong tiệm thuốc bắc này và cùng cụ chủ tiệm già đang bốc thuốc, cân đếm, gảy bàn tính kia phối hợp trong nghề y dược. Bốn năm trời học nghề thuốc ấy, Tường cũng không hề xao lãng thi thư kinh sử. Hơn nữa, ở Huế, Tường càng có dịp tìm đọc các cuốn sách quý trong các tủ sách gia đình và tìm mua được ở hiệu sách lớn của kinh đô. Bốn năm trời, Tường đã chín chắn, trầm tĩnh, uyên bác hơn xưa đến mức anh cũng không ngờ. Lúc này, với chiếc khăn đóng trên mái tóc bối tó, trong chiếc áo the đen, ngồi bắt mạch, kê đơn cho bệnh nhân từ các làng thôn ra Ái Tử, lị sở của huyện, ở gương mặt trắng trẻo, đẹp một cách cương nghị, toát ra vẻ trang nghiêm. Đó là vẻ trang nghiêm thân ái, ân cần, khiến người đối diện vừa kính nể, vừa cảm thấy dễ gần gũi.
Khi viết phái thuốc cho người bệnh là một người đàn bà có lẽ ở tuổi bốn mươi xong, thầy chợt nghe chú nhỏ đi theo mẹ hình như không thể kìm chế được nữa, buột miệng nói:
- Mạ, khi hồi có ông “tả đạo” vô đây!
Bà mẹ nhăn mặt:
- Kệ người ta! Có quan, có lính, việc chi con! Họ nghe được, sinh chuyện thêm phiền. – Bà mẹ đang bệnh vẫn mắng khẽ con trai, áy náy muốn xin thầy thuốc thứ lỗi –. Dạ, cháu nó còn con nít, tò mò, nói bậy… Dạ, xin thầy cảm phiền…
Bà mẹ bối rối bước về phía quầy thuốc, sau khi thầy Tường lắc bàn tay mở ra, đưa lên, với nụ cười tỏ ý không có gì đáng trách trẻ con cả.
Người bệnh kế tiếp là một cụ ông trông không đến nỗi trầm kha lắm, cũng buột miệna!
- Bẩm thầy, tháng ba vừa rồi, Tây gây sự ở Đà Nẵng, cũng vì bọn “tả đạo” nớ đó!
Thầy Tường gật đầu nhưng lại nói:
- Tất cả là do bọn Tây dương! Nổ súng, truyền “tả đạo” cũng đều do Tây cả. Mình là người Việt với nhau, thương cho người mình nhẹ dạ, cũng trách là người mình trót nhẹ dạ, thậm chí mê muội mất rồi. Triều đình đã hết thuốc chữa! – Quên vẻ trầm tĩnh, thầy thuốc trẻ hơi đanh giọng, và chợt biết phải ngừng lại –. Nhưng, thôi… Người Việt mình còn bệnh, bệnh thiếu ăn, thiếu mặc, bệnh thiếu súng thép, tàu đồng… Ồ, thôi… Cụ cho tôi hỏi bệnh đã. Rứa cụ cảm thấy bệnh trong người ra sao?
Nhìn sắc diện, hỏi han, lắng nghe, thăm mạch, kê đơn, vị lương y trẻ ân cần trong công việc của mình. Thầy Tường cũng lắm khi gặp những nỗi đời, niềm thời sự, những dự cảm, báo động về vận nước.
Đó là một buổi sáng trong một ngày đầu mùa hè năm Thiệu Trị thứ bảy (1847), năm đã xảy ra vụ thứ hai thực dân Phú Lãng Sa (France) khiêu khích triều đình, sau vụ đầu tiên cách đây đã bảy năm, hồi nhà vua đương kim mới lên nối ngôi! Lần này, chúng bắn chìm đến năm chiếc thuyền binh của nước ta cũng tại Đà Nẵng, rồi bỏ chạy ra khơi xa (1)! Không thể không thao thức, suy tư, thầy thuốc đông y Nguyễn Văn Tường còn nghe dậy lên trong lòng khát vọng dấn thân, nhập thế bằng hành động mạnh mẽ hoặc tích cực hơn của nhà nho. Có điều, kẻ sĩ Nguyễn Văn Tường vẫn chưa được ban sắc chỉ xoá án “bất đắc ứng thí”! Thầy vẫn ân cần, ẩn nhẫn, lặng lẽ trong công việc y dược của mình. Sinh ra đời bảy ngày sau Tết Trung thu tháng tám nguyệt lịch năm Giáp thân, Minh Mạng năm thứ năm (1824), đến nay, Nguyễn Văn Tường đã hai mươi bốn tuổi, kể cả một tuổi trong lòng mẹ. Trải qua đằng đẵng mười tám năm đèn sách, đã một lần đỗ tam trường (tú tài) nhưng bị truất, đến giờ, thầy thuốc trẻ này vẫn trắng tay khoa cử, không một mảnh bằng cấp, học vị của triều đình!

2

Ngày quý mão, hai mươi bảy, cuối tháng chín lịch mặt trăng Đinh mùi (1847) năm ấy, vua Thiệu Trị băng hà!
Tiệm thuốc cũng là phòng thăm mạch đông y của cụ già và của kẻ sĩ lỡ vận Nguyễn Văn Tường khép cửa trong những ngày quốc tang. Tin tức kinh đô qua những kẻ bộ hành trên đường thiên lí Bắc – Nam, ghé lại quán cơm, quán nước ở huyện lị Ái Tử này, thầm thì rỉ tai, đã lan truyền khắp làng thôn trong huyện Đăng Xương. Người ta ngạc nhiên khi người lên nối ngôi vua cha mới mất không phải là thái tử Hồng Bảo. Người con thứ, Hồng Nhậm, nổi tiếng về văn chương thơ phú nhưng hơi ốm yếu của đại hành hoàng đế Thiệu Trị đã lên ngôi theo di chiếu, được sự phù giúp của bốn cố mệnh đại thần: Trương Đăng Quế, Nguyễn Tri Phương, Vũ Văn Giải và Lâm Duy Thiếp (2).
Trong những ngày quốc tang, thầy Tường không bước sang tiệm thuốc bắc và phòng mạch. Ngôi nhà tranh vợ chồng thầy thuê ở Ái Tử này cũng không xa tiệm thuốc của cụ già bao đỗi, chỉ cần bước vội chân một chút, là đến ngay nếu có việc cần kíp. Sáng nay, ngồi trước cuốn sách mở, nhưng tâm trí thầy Tường không thể không nghĩ ngợi, bâng quơ nhìn ra ngoài vuông cửa sổ trổ ngay căn giữa, thấy Đích, vợ của thầy, đang sắp những lát thuốc Nam trên mấy chiếc nong, dưới ánh nắng cuối thu vẫn còn rực rỡ. Thật lòng, thầy không ngờ đời vua Thiệu Trị lại ngắn ngủi đến thế. Mấy năm rồi, chờ sắc chỉ ân xá mãi đến mức thầy cũng đôi khi an phận. Và mới năm kia đây, khi đang còn học đông y ở Huế, trong một lần về thăm nhà, anh được biết cụ khoá Dương Văn Thu, thân sinh của Đích, đã đồng ý nhận lời cầu hôn cho con trai của cha anh. Sau lễ thăm, lễ hỏi và lễ cưới, Đích về làng An Cư làm dâu nhà anh, trong khi chờ anh học xong nghề thuốc. Vợ chồng son chưa sống với nhau nhiều nhưng đủ mặn nồng, nên đến bây giờ đã có chung với nhau một đứa con trai đầu lòng. Dương Thị Đích, người mẹ trẻ mười chín tuổi của thằng bé Thiều, chính là người con gái út của cụ khoá Thu, chủ tiệm thuốc đông y cũng là phòng thăm mạch của anh. Thầy Tường hạnh phúc và cũng không hiểu rõ mình có an phận hay không. Có điều, với thầy, an phận hay không, cũng mê say, miệt mài đèn sách. Nói đâu xa, ngay ở nước mình, dưới thời Lê, vẫn có những cụ già bảy mươi tuổi lều chõng đi thi hương, thi hội kia mà. Chí học hành của kẻ sĩ đâu kể gì tóc xanh hay bạc tóc!
O Đích, bây giờ láng giềng đã quen gọi là o Thầy. Đó là cách gọi người vợ theo công việc của chồng. O Thầy đã vào nhà, đang ngồi trên chiếc đòn gỗ, bên nôi của thằng cu Thiều, và một bên thuyền tán. O đang nắm hai tay cầm của dao cầu (một bánh nghiền bằng sắt, khá nặng), lăn tới lăn lui cho thật mịn những thứ thuốc mà cụ khoá Thu giao cho. Hương thuốc đông y thơm lạ lùng.
Nghe tiếng bước chân của thầy Tường bước ra cửa, o Thầy ngước mắt lên.
- Ta đi ra bờ sông một lát. Mình ở nhà.
- Có việc chi mà ra bờ sông? Anh Thầy nhớ về sớm nghe.
Thầy Tường gật đầu, bước ra ngõ. Anh vừa đi vừa nghĩ ngợi. Thế mà đã bảy ngày trôi qua, từ khi vua Thiệu Trị băng hà. Không rõ lòng mình, anh chỉ thấy bâng khuâng. Ngồi xuống một phiến đá lớn dưới gốc cây sầu đâu rợp bóng bên bến sông vắng, cuốn sách cầm ở tay, nhưng thầy Tường nghĩ ngợi đâu đâu.
Dòng sông Ái Tử ngập nắng, chầm chậm trôi lững lờ trước mặt. Cơ hồ cái chết của đại hành hoàng đế đang đẩy đưa tâm thức thầy Tường về khởi nguyên của triều đại. Chính dòng sông Ái Tử này đây, nơi vua Trần Quang Đế nhà hậu Trần bị tên tướng Tàu nhà Minh đánh bại, cũng là nơi Mạc Lập Bạo nhà Mạc bị tiên chúa thái tổ Nguyễn Hoàng tiêu diệt, do được Qua Qua phu nhân linh thánh hiện ra hiến kế mĩ nhân trong giấc mộng mị của ngài (3)! Tiếng trẻ con khóc “oa oa” trên sóng nước hẳn cũng chỉ nảy sinh từ hai chữ “Ái Tử”, thương con. Dân gian chẳng hát “mẹ thương con ngồi cầu Ái Tử” đó sao! Thương con mà hiến độc kế giết tướng Mạc, con cháu Mạc Đăng Dung, gã đô lực sĩ cướp ngôi nhà Lê, hẳn chỉ là mộng mị của thái uý Đoan quận công Nguyễn Hoàng, hay thương con như thế mới là tình thương mãnh liệt, tích cực của dân gian? Từ tiên chúa Nguyễn Hoàng, trải qua mấy đời chúa, đến tiên đế Gia Long, ngót hai trăm bốn mươi bốn năm (1558 – 1802). Từ ngày tiên đế Gia Long lên ngôi hoàng đế, lập ra nhà Nguyễn với nước Việt Nam nhất thống, địa dư rộng lớn nhất lịch sử mấy ngàn năm, đến nay, cũng tròn bốn mươi lăm năm (1802 – 1847).
Thời gian! Lịch sử! Bao nhiêu dâu bể thăng trầm, in dấu ngay ở từng cây đa, giếng nước làng quê với những sự tích!
Thầy Tường bâng khuâng với một câu thơ thiền thời Lí – Trần: “Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”. Quả thật, ở vùng đất trận mạc tranh chấp này, có đó rồi mất đó, thoắt xanh tươi cây trái, thoắt vườn không nhà trống, mong manh như hạt sương treo đầu ngọn cỏ. Nhưng lạ lùng thay, sức sống Quảng Trị bền bỉ đến phi thường!
Dòng sông ngập nắng đưa đẩy ý nghĩ thầy Tường đi về làng quê của mình. Làng An Cư là ngôi làng đầu tiên của tổng An Cư trên đất châu Ô này, được phát hoang, gầy dựng bởi những cư dân châu Diễn, châu Hoan, châu Ái từ thuở Huyền Trân công chúa theo vua Chế Mân về Chiêm Thành. Dòng họ Nguyễn của thầy Tường vào đây cũng già năm trăm năm! Sau hai trăm năm, châu Thuận thân yêu này, vốn là Ô châu, vẫn là mảnh đất tranh chấp, là trận mạc. Ba trăm năm gần đây, dẫu chiến trường của cuộc nội chiến hai thế kỉ giữa Đàng Trong – Đàng Ngoài thuộc vùng đất xa hơn, phía châu Lí (Bố Chính, Ma Linh, Địa Lí – Quảng Bình), quê hương Quảng Trị không phải không đao binh. Ba trăm năm ấy, dòng họ anh sinh sống dưới ơn mưa móc của các đời chúa, đời vua nhà Nguyễn, triều đại hiện thời, triều đại mà một kẻ sĩ như anh phải tận lòng phụng sự, nhất là trong thời điểm này.
Bây giờ, đã bảy ngày, sau cuộc băng hà của đại hành hoàng đế Thiệu Trị, cũng chẳng hiểu sao thầy Tường lại ra ngồi đây nghĩ ngợi vẩn vơ, thoáng có chút gì u hoài nữa!
- Anh Thầy ơi, có nghe mõ làng rao không? Vua ban ân chiếu! – Rõ là giọng của o Đích –.
Thầy Tường vụt đứng dậy, quay lại, nhìn vợ đang vội bước với niềm vui mừng rạng rỡ.
- Mõ rao ân chiếu? – Thầy Tường hỏi lại –. Mình nghe răng chừ?
- Chú mõ làng mới vừa đi rao ngang ngõ nhà mình!
Hai vợ chồng bước về nhà.
- Mình để thằng cu Thiều ở nhà một mình sao?
- Em đã bồng qua gửi bên mệ ngoại.
Thầy Tường bảo vợ về nhà, một mình anh bước về phía dinh huyện lị.
Ngày kỉ dậu hôm nay, mùng ba, đầu tháng mười, kỉ nguyên Tự Đức đã bắt đầu mở ra với ân chiếu gồm 25 điều ban khắp thiên hạ. Vị lương y trẻ tuổi Nguyễn Văn Tường run lên khi đứng đọc những dòng chữ trên bảng bố cáo:
“Các địa phương có nhân sĩ nào tài đức giỏi giang mà ẩn dật nơi rừng núi, chuẩn cho quan thượng ti ở nơi ấy xét thực tâu lên, lượng cho bổ dụng”.
“Từ tờ mờ sáng ngày mồng 3 tháng 10 năm Thiệu Trị thứ 7 trở về trước, phàm các tội phạm phải sung quân hay phát lưu trở xuống, không cứ là đã kết án hay chưa kết án, đều cho khoan miễn tha ra” (4).

Thầy thuốc đông y Nguyễn Văn Tường cố giữ vẻ trầm tĩnh thường ngày, bước thong thả về nhà, với niềm vui rộn rã trong lòng. Ân chiếu!
Anh về đến nhà, Đích bỏ dao cầu thuyền tán, đứng đậy bồng con ríu rít hỏi chuyện. Thầy Tường cầm bàn tay mũm mĩm của chú bé Thiều, đứa con trai đầu lòng của vợ chồng anh, nhìn vào đôi mắt đen láy đã ràn rụa nước mắt xúc động của Đích, nói với giọng trầm tĩnh đến lạ lùng:
- Ta sẽ được xoá án! Mình vui đi!
Sau đó, tháng mười một, lại có một chiếu ban ơn gồm 19 điều nữa, cũng được rao truyền, niêm yết khắp thiên hạ.
Ở Quảng Trị, vào đầu năm Mậu thân (1848), Tự Đức nguyên niên, tuần vũ Lê Trường Danh (5) và án sát Lê Văn Vĩ (Lê Hồng Miên) (6) đã chiểu theo ân chiếu, lập thủ tục đệ trình lên Bộ Hình, xin xoá án cho Nguyễn Văn Tường, tú tài bị truất, bị kết án tội đồ đã chấp hành án, sáu năm về trước, vì không chịu đổi tên trùng với quốc tính.
Sáu năm về trước, Văn Tường chẳng buồn bã trông chờ một kỉ nguyên mới với sự xuất hiện minh đế của triều Nguyễn đó sao! Anh những tưởng phải hai mươi năm, ba mươi năm hoặc có khi phải lâu hơn nữa mới có ngày nay!

3

Sau một tháng được xoá án “bất đắc ứng thí”, tỉnh Quảng Trị của người thầy thuốc trẻ lại phải đối phó với nạn thổ phỉ Lào. Phủ Cam Lộ, nơi đã có một thời gian dăm năm, gia đình cha mẹ anh phải lên đó tìm đất mưu sinh bởi nạn cường hào ác bá ở quê nhà An Cư. Trên vùng đất đó, bọn thổ phỉ nước láng giềng đang tràn sang cướp phá. Hai châu Ba Lan, Mường Bổng gồm những người nhân tộc thiểu số đồng bào lại một phen điêu đứng, tang tóc. Cam Lộ, đó là cửa ngõ phía tây của Đất nước, của kinh đô, Xiêm rồi Lào đã chín lần quấy phá dưới hai triều Minh Mạng, Thiệu Trị. Đây là lần thứ nhất dưới triều Tự Đức!
May sao tri phủ Lê Văn Dự và quản vệ Nguyễn Nhuận của Cam Lộ đã kịp thời đánh tan, vỗ yên được bọn phỉ Lào trong một thời gian ngắn (7).
Qua vui mừng trước ân chiếu, qua xôn xao, kinh động bởi thổ phỉ, Quảng Trị và Nguyễn Văn Tường lại thầm lặng với ruộng nương, sách đèn, bắt mạch, kê đơn thuốc, theo nhịp sống bình thường. Thật ra, trong những ngày tháng này, thầy Tường lại sôi kinh nấu sử hơn bao giờ hết. Những cuốn sách triết học, sử luận thuộc kinh điển tam giáo, đặc biệt là của Nho giáo với tứ thư, ngũ kinh như Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử, Kinh dịch, Kinh Xuân thu… cho đến Bắc sử và các pho quốc sử từ Việt sử lược, Việt điện u linh, Đại Việt sử kí toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí, Phủ biên tạp lục, Đại Nam thực lục tiền biên, và cả Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỉ… được viết bằng chữ Hán, hầu như đã trở thành máu thịt trong anh. Ngoài ra, cũng như các sĩ tử khác, anh vận dụng nhuần nhuyễn các thể văn cử nghiệp, quan trường và trước tác (8). Đúng là sôi kinh nấu sử để những hạt ngọc chữ nghĩa trở thành cơm ăn nước uống hằng ngày của kẻ sĩ!
Lắng đi vài tháng, lại tàu Pháp ghé vào dòm ngó, đòi xin được lấy củi, lấy nước ngọt để chạy tàu thuỷ với máy hơi nước! Triều đình chấp thuận như thế (9). Nhưng đâu chỉ thế, trong thâm ý, với kế hoạch tằm ăn lá dâu lâu dài, chúng đang ra sức tuyên truyền, đào tạo lực lượng hậu thuẫn bên trong nước ta, lại đo đạc mực nước các cửa biển, cửa sông, hòng chiếm một vùng đất của ta làm trạm dừng chân, cung ứng vật hạng, nhân lực, làm bàn đạp ban đầu.
Rồi lại bùng lên vụ thổ phỉ Lào với tên tay sai Phù Xu Phì ở châu Mường Bổng trên Cam Lộ! Phù Xu Phì phản quốc, phản buôn làng chỉ vì một chức ma tà vằn của giặc (10)!
Và tháng sáu nguyệt lịch (1848), điều cấm đạo Gia Tô (Catholicisme) lại phải ban bố (11)! Cây thập tự được đặt trên đất để thử thách “dữu dân” có chịu bước qua hay không! Có người thức ngộ thú nhận đã bị thực dân lợi dụng, bước qua cây thập giá một thời tôn thờ, người ấy được tẩy hai chữ “tả đạo” khắc xăm trên mặt. Có người cam chịu tử đạo như Chúa Giê Su (Jésus) trên hai thanh gỗ thập tự tử hình! Các đạo trưởng (giám mục, linh mục) người Tây dương lén lút đổ bộ vào bờ biển, sống dưới hầm, lẩn trong nhà “dữu dân”, một số bị bắt được và bị hành hình về tội xúi giục dân trong nước làm giặc! Ở nước ta, bờ biển dài suốt mấy ngàn dặm, thật khó lòng kiểm soát. Cấm đạo, triều đình đành phải bức hại dân mình, bi kịch ấy đâu chỉ của nước ta, mà khắp châu Phi, châu Á, nhất là ở các nước: Thanh (Trung Hoa), Nhật Bản, Triều Tiên, Ấn Độ, Xiêm, Miến…
Có một buổi sáng lương y Nguyễn Văn Tường không bao giờ quên được. Quanh bãi cát ở phía tây cột cờ Dinh Cát ngày xa xưa, thầy Tường có mặt trong dãy ghế phía sau các quan chức tỉnh huyện. Là sĩ phu của huyện, thầy đang ngồi cạnh các quan viên về hưu, các cử nhân, tú tài chưa được bổ nhiệm, nhìn ra vuông cát rộng. Một cây thập tự bằng gỗ đặt nằm ở giữa. Phía trên thập tự, những người đã cải đạo, “chối đạo” đứng một bên, những người cam chịu tử vì đạo đứng bên kia. Một không khí nặng nề bao trùm. Trong cái nặng nề ấy, thực ra, hầu hết những người dân lương, quan chức, sĩ phu, thảy đều kinh ngạc và căm giận đám “tả đạo” đang đứng giữa sân. Họ chẳng hiểu sao niềm tin vào một tôn giáo xa lạ, chối bỏ cả việc đặt bàn thờ gia tiên trong nhà, chối bỏ mọi phong tục thờ cúng của dân tộc, thậm chí chống lại cả nền độc lập của dân tộc mình, không đoái hoài đến sự mất còn của Tổ quốc mình, lại được tin tưởng đến mức cuồng tín đến thế. Ngỡ sẽ sớm chấm dứt cảnh huống đang diễn ra trước mắt ấy, bởi những người theo “tả đạo” đã có thời gian suy nghĩ, bỗng nhiên, một người đến lượt được dẫn đến dưới chân cây Thánh Giá của họ, không phải như những người “tả đạo” khác, mà bị trói chặt khuỷu tay. Khoảng bốn mươi tuổi, ông ta tiều tụy bước, và đứng lại đúng chỗ.
- Bỏ tà đạo thì bước qua, đứng phía phải! Không bỏ, qua bên trái! – Viên lính dõng dạc bảo –.
- Xin quan cho tôi nói một lời.
- Không nói gì hết!
- Tôi cứ nói! Xin hỏi: Ai giúp tiên đế Nguyễn Ánh đánh bại bọn ngụy Tây Sơn, lập nên nhà Nguyễn? Có phải Đức Cha cả Bá Đa Lộc – Pi-nhô đờ Bê-hen (Pigneau de Béhaine) (12)? Có phải là cha ông chúng tôi theo đạo Gia Tô, thời đó, đã phù giúp? Sao các người phủi ơn nhanh rứa?
- Câm miệng! Đúng là phạm thượng, giọng lưỡi “tả đạo”, lại xổ tiếng Tây tiếng Âu nữa! – Giọng viên lính cố nói to để át sự bối rối –.
Viên lính chạy ngay đến trước khán đài, đan hai tay đặt trước trán, một đầu gối quỳ xuống chạm đất cát:
- Bẩm các quan lớn, thằng “tả đạo” này cứng đầu, phạm thượng!
Các quan, sĩ phu và tất thảy dân lương tham dự đều nghe rõ lời gã “tả đạo” to gan. Dám phạm huý, kêu ngay tên tự của tiên đế là đủ tội chết, nữa là!
- Thật láo xược! – Quan tuần vũ giận dữ quát –. Quân đâu! Gông cổ nó lại. Như thế là rõ ràng nó muốn chịu án trảm quyết bêu đầu! – Quan đầu tỉnh Lê Trường Danh lại cố trấn tĩnh, vẫn với giọng Đàng Ngoài quê ông –. Lẽ ra, không cần nghị xử gì nữa, mà phải chém ngay thị chúng! Nhưng ta cũng bảo cho tất cả quan dân ở đây rõ, bọn cố đạo Tây dương ngày càng lộ bộ mặt thật. Chúng đã giúp ngụy Khôi ở Gia Định, kích động bao nhiêu vụ làm loạn ở Bắc Kì, kể cả bọn ngụy Nông Văn Vân, toan lật đổ bản triều (13). Ngay tiên đế Gia Long về sau cũng đã hạn chế bọn “tả đạo” Tây dương, và cả tiên đế Minh Mạng cũng đã nhiều lần ban dụ cấm đạo vì bản chất bọn “tả đạo” ngày càng lộ rõ (14)! Thế mà “dữu dân”, “tả đạo” các ngươi vẫn ngu mê! Thôi, khỏi lắm lời! Gông cổ tên kia lại! Tiếp tục!
Sau khi rời khỏi bãi cát cải đạo, thầy Tường bước về nhà, đi cạnh Lê Đình Dao (15), một bạn đồng liêu cùng lứa tuổi vừa đỗ cử nhân khoa thi Mậu thân (1848) năm nay. Tính Dao vốn khẳng khái nhưng điềm đạm, lúc này cũng không thể không bức xúc nói:
- Trong phường Lá Vằng, mấy cố đạo Tây hay gọi là La Vang, bây chừ “tả đạo” tụ tập cầu nguyện Đức Mẹ Đồng Trinh suốt cả đêm ngày, xem chừng sốt sắng lắm! – Lê Đình Dao buồn buồn nói –. Thật khó hiểu quá chừng quá đỗi! Nghe đâu thời ngụy tướng Phạm Ngô Cầu của ngụy chúa Trịnh (1779), thời vua Cảnh Thịnh ngụy triều Tây Sơn (1798), chỗ nớ cũng đã là nơi trốn chạy các cuộc “sát tả”, máu chảy thành khe, thành ngòi (16)! Lúc bấy chừ, họ đồn có Đức Mẹ, người Do Thái, dân gian bảo là “ngó như mấy bà đầm”, hiện ra an ủi! Không hiểu vì răng dân mình lại có những kẻ theo cái đạo lạ kì như rứa!
- “Kính nhi viễn chi”! Đối với quỷ thần phải vậy, cứ “kính cẩn nhưng nên xa lánh”, như thầy Khổng dạy là tốt nhất, miễn là dân “tả đạo” người Việt mình đừng theo Tây, nghe lời bọn cố đạo Tây dương là được. – Nguyễn Văn Tường nói với Lê Đình Dao, khẽ giọng –. Nhưng, thật lòng… mình cũng không hiểu nổi vì răng một bộ phận dân mình lại như rứa, như Dao nói. Họ cứ nghe, cứ tin mấy cố đạo Tây tà. Ở kinh đô, khách thương người Tàu, Nhật, Mã Lai… cập bến tường thuật rất rõ là bọn Tây bạch tạng lợi dụng tôn giáo! Xưa nay tam giáo cửu lưu, có ai trấn áp chi đâu! Tu hành quái quỷ chi bọn đội lốt cố đạo nớ! Đi ăn cướp nước người ta mà còn khoác áo tu sĩ! Hết nước nói!
Hai người bạn, một vốn dân gốc làng Bồ Bản, một gốc An Cư, hai làng gần nhau, đi bên nhau, lặng lẽ suy tư. Họ cũng hiểu rằng, không phải chỉ riêng họ, mà hầu hết lương dân, sĩ phu, quan lại cho đến hoàng thân, hoàng đế đều cảm nghĩ như thế.
Thực dân! Thổ phỉ! “Tả đạo”! Đó là ba nguy cơ, hiểm hoạ và nỗi đau cả nước từ Bắc chí Nam và ở Quảng Trị quê nhà! Và nguy hoạ thứ tư: thiên tai dịch lệ! Như một trận bão oan nghiệt, bệnh dịch lại quét qua xát lại miền Trung, miền Bắc (17)! Bệnh dịch tả, căn bệnh hung ác, giết người hàng xã, hàng huyện, thầy Tường biết rõ cả đông y lẫn tây y đều bó tay chịu trận hoặc chỉ cầm cự!
Lại một mùa hạ thứ hai của kỉ nguyên mới!
Tháng năm nguyệt lịch, Tuần phủ Trị – Bình mới nhậm chức là Trần Quang Chung, người Tuy Phước, Bình Định, thay Lê Trường Danh, chuẩn bị cung trạm nghinh tiếp tại tỉnh nhà để đón sứ bộ nước Thanh (Trung Hoa) qua trao sắc chiếu phong vương cho vua Tự Đức. Lễ phong vương sẽ được tiến hành vào tháng bảy, năm Kỉ dậu (1849). Sứ bộ sẽ sang ngay kinh đô Huế, chứ không phải vua nối ngôi phải ra tại Hà Nội (Thăng Long) như các vị vua trước. Đó là một thắng lợi ngoại giao đầu triều Tự Đức (18). Và vì vậy, cộng với bệnh dịch đang lan tràn vừa tắt, kì thi hương chính khoa tháng bảy mùa thu năm nay bị triển hoãn, chỉ mỗi một trường thi Gia Định vẫn được thi theo lệ định!
Từ tháng mười Đinh mùi (1847) đến nay, đã hai mươi mốt tháng trôi qua với bao biến động, lễ lạc. Thầy thuốc đông y Nguyễn Văn Tường cũng đã lỡ mất một kì ân khoa năm ngoái, Mậu thân (1848), vì đang làm thủ tục xin xoá án “bất đắc ứng thí”! Kì này được xét hạch để dự thi, lại bị hoãn! Phải chờ đến tháng ba mùa xuân Canh tuất (1850) năm tới!
Hơn bao giờ hết, lúc Đất nước đang trong thời điểm báo động lâm nguy, kẻ sĩ càng nao nức nhập thế cuộc. “Nhập thế cuộc”, dấn thân vào đời kinh bang tế thế, sửa nước giúp đời, “bất khả vô văn tự”, không thể không chữ nghĩa, không thể không thông qua con đường khoa cử!
Bạn bè tuổi tác có chênh lệch nhau, nhưng đều cùng một lứa, cùng được tập trung về trường tỉnh để được học quan giảng tập, khảo khóa, xét hạch trước khi dự thi, từ khoa Nhâm dần (1842) đến nay, nhiều người đã đỗ đạt, cũng nhiều người bỏ cuộc. Trần Đình Túc (làng Hà Trung), Nguyễn Đăng Điều (làng An Cư), Hoàng Văn Giảng (làng Diên Sanh), Nguyễn Tăng Doãn (làng Câu Nhi), Lê Đình Dao (làng Bồ Bản), Vũ Tử Văn (Võ Văn Thọ, làng Nại Cửu), Nguyễn Hữu Điềm (làng Thái Hoà), và đặc biệt là Trần Xuân Hoà (làng Thâm Khê, huyện Hải Lăng; về sau trở thành người trung nghĩa, anh hùng chống Pháp của triều Nguyễn, được vua Tự Đức ban dụ dựng đền thờ)… đã lần lượt được đăng khoa (19)!
Người vượt lên tất cả bạn bè, sẽ đứng đầu Đất nước, giờ này vẫn hãy còn lận đận! Nhưng cơ may đang được mở ra sau khi kỉ nguyên Tự Đức đã ban ân chiếu, Nguyễn Văn Tường đã được mở khỏi cái ách “bất đắc ứng thí”!
Thầy Tường đã hai mươi sáu tuổi, anh trầm tĩnh chờ mùa xuân năm sau.
Và tháng ba, Canh tuất, năm Tự Đức thứ ba (1850), kì thi hương chính khoa vốn phải triển hoãn cũng đến. Nguyễn Văn Tường đã đỗ cử nhân (20). Nhưng đau xót thay, anh lại bị “nhắc nhở” về cái án “tên trùng với quốc tính không chịu đổi, nên bị đi đày” một lần nữa! Phải bị tội đồ một lần nữa, trước khi chính thức được công nhận học vị cử nhân. Đó là một cách khẳng định trước toàn dân thiên hạ và trước tất thảy quan chức, sĩ phu: Nguyễn Văn Tường không phải thuộc huyết thống hoàng tộc (không phải là hạt máu rơi của Trường Khánh công Miên Tông – hoàng đế Thiệu Trị – bao giờ!). Tuy nhiên, lần bị đày (tội đồ) thứ hai này cũng chỉ là “thủ tục xoá án có nhắc nhở” để anh được tiến thân trên con đường khoa cử, hoạn lộ, đúng như những người xuất thân từ giai tầng dân đen dân dã khác. Chỉ làm các công việc nhẹ nhàng, anh không bị lao dịch khổ sai như lần trước. Nguyễn Văn Tường bình tâm, thanh thản trong sự thấm thía thuyết chính danh định phận. Vâng, có phàn nàn gì đâu, cho dù bị oan trái! – Ông cử tân khoa còn bị treo bằng cấp tự nhủ –. Anh không hề mạo nhận quốc tính. Xưa nay, anh đã sống đúng với phận mình như tuân theo thiên mệnh!
Lần bị tội đồ này, có tính chất khẳng định, nhắc nhở lại án cũ, chứ không phải Nguyễn Văn Tường tái phạm, và chỉ trong mức sáu tháng, từ tháng tư đầu mùa hạ đến tháng mười đầu mùa đông. Lần này, suốt sáu tháng trời, cống sĩ tân khoa bị tạm thời treo bằng cấp, học vị lại phải lên tuốt tận đỉnh núi trong rặng Bạch Mã, nơi có con đường đèo Hải Vân, con đường dành cho khách bộ hành và binh lính hành quân, nhỏ như sợi chỉ ngoằn ngoèo vắt qua. Trong rặng núi Bạch Mã ấy, Viện Thái y mới thử nghiệm gầy dựng một vườn thuốc Nam. Ngày ngày, cùng với toán lính thú, dưới sự hướng dẫn của vài ngự y, kẻ cựu phạm nhân tội đồ bị cảnh cáo lại chăm lo bắt sâu tỉa lá, tưới nước, bón tro. Cũng là thầy thuốc, nhưng anh không khăn đóng áo the, phải ăn ngủ chung với lính thú, và cố nhiên không được hưởng đồng lương bổng nào. Các quan ngự y ăn riêng, ngủ riêng, được phục dịch hầu hạ, và lương bổng gấp đôi, gấp ba so với lúc làm việc ở kinh đô!
Tháng mười, Nguyễn Văn Tường được về quê, trước khi lại vào kinh đô dự kì thi hội. Trên đường ra Quảng Trị, qua chuyện trò với những người cùng đi, anh mới biết, từ tháng tám năm Tân Hợi (1851) sang năm, làng Diên Sanh sẽ được chọn để dời đặt lị sở cho huyện Hải Lăng (21).
Hôm ấy, qua Diên Sanh, mặc dù khá nóng lòng về thăm nhà, nhưng cũng rất mệt mỏi, cống sĩ Nguyễn Văn Tường tách khỏi đám bộ hành, ghé lại nhà Hoàng Văn Giảng (22), được dân làng gọi là ông cống, cống sĩ tân khoa từ khoá Đinh mùi (1847). Ở đấy, không những gặp Giảng, anh còn gặp cả Trần Xuân Hoà (23). Cả hai đang chuẩn bị đi nhận nhiệm sở. Hoà vào Nam, sẽ lãnh ngay chức tri phủ Định Tường, kiêm lí vài huyện. Giảng ra Bắc, lãnh tri huyện Tiến Lữ ở tỉnh Lạng Sơn.
Trần Xuân Hoà là con trai của cố bố chính sứ Trần Tuyên ở tận tỉnh Vĩnh Long, bị giặc mai phục, chết trận, rất được vua Thiệu Trị khen ngợi. Hoà được bổ ngay tri phủ cũng nhờ công lao của cha. Hoà vẫn nói giọng Nam Bộ đặc sệt, chụp lấy tay Tường:
- Tù đày sao mậy? Tưởng tiều tụy, nhưng hoá ra trông còn bảnh chán! Ta đi từ làng lên đây, ngang qua làng Kim Long (Kim Lung) ở Hải Quế, mua được vò rượu đầu vòi, say đằm mà bốc, ngon nhất nước! – Anh cười ha hả –. Gặp Tường ở đây, không nhậu làm sao được, phải hông Giảng? Giảng, kiếm con gà con qué gì nhậu chơi mậy! Mừng thằng Tường ở tù ở đày đã được dề!
Tường cảm động cầm tay bạn, nhìn gương mặt với những nét vừa gân guốc vừa thông minh của Hoà:
- Bình thường! So với cày cuốc ở nhà, xem ra bị đày cũng không cực lắm! Tội đồ sơ sơ, vừa chiếu lệ, lại vừa không phải lệ, rứa thôi! Thật ra, cũng oan cho mình, nhưng cái tính bướng thành ra đành phải “bụng làm dạ chịu”! – Tường cười –. Thôi, hết nợ oan gia rồi! Đừng nhắc nữa! – Tường hỏi Hoà –. Sắp vào Nam nhận chức? Răng chừ lên đường?
- Cụ thượng, cụ tổng Nguyễn Đức Hoạt (24) nghe đâu mới mất! – Giảng nói –. Thi hài mới từ Định Tường, Biên Hoà, chở thuyền ra! Cũng tiếc cho làng An Thơ, huyện Hải Lăng mình! Nếu cụ còn sống, Hoà sẽ nhậm chức dưới trướng của cụ. – Hoàng Văn Giảng vẫn giữ cốt cách nhà nho, vận khăn đóng áo the dài tiếp bạn, nhìn Tường và Hoà, giọng từ tốn –. Ở quê mình có món lòng sả, đặc sản. Uống chút rượu, nhấm gà bóp, rồi chén lòng sả sau. Đồng ý?
Lát sau, khi ba người bạn mắc áo dài khăn đóng lên hai chiếc gạc nai với nguyên đầu nai còn lông đã khô, được gắn lên vách gỗ, mỗi người chỉ còn vận bộ áo quần trắng, vạt áo cài khuy nút thắt một bên, ngồi trên hai chiếc trường kỉ chạm trổ tinh vi đặt ở căn giữa, trước gian đặt bàn thờ buông sáo trúc. Đứa cháu gái bưng lên một khay chén trà ngan ngát hương lài.
Lát sau, cháu gái lại bưng rượu thịt lên.
Tiệc rượu đã nồng. Câu chuyện đẩy đưa thế nào, lại nhắc đến Lê Đình Dao, Vũ Tử Văn, tháng ba Tân hợi (1851) sang năm sẽ cùng họ dự kì thi hội.
- Mình và Võ Văn Thọ, tức là Vũ Tử Văn đó, sau khi học chữ ở nhà với cha mình, lại học với cha Dao. Bọn mình vốn là học trò cụ thân sinh của Lê Đình Dao. Cụ thầy Lê Đình Khuê ấy đúng là túc nho, không hiểu có bị trù dập gì không, thi cử cứ bị đánh hỏng mãi, không đỗ được cái tú tài! – Nguyễn Văn Tường nói –.
- Mình biết cụ Lê! Chả là có một lần thời trai trẻ, cụ cho Tây Sơn có công thống nhất Đàng Trong, Đàng Ngoài. Cụ biện luận: Nếu không có Tây Sơn, Đất nước cứ hai Đàng mãi, chinh chiến mãi. Phải có Tây Sơn như thế, Đất nước mới yên, mới nhất thống một mối. – Hoàng Văn Giảng đặt chén rượu gạo Kim Long xuống –. Do đó, cụ cho là theo lẽ biến dịch, nên không gọi Tây Sơn là ngụy, còn bọn nào xuyên tạc Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ (25) vốn là đạo dòng, “dữu dân”, tức là cỏ trong lúa, thì đúng là láo toét (26). Chỉ chừng đó mà khốn một đời.
- Nhưng cụ thanh thản lắm! Đúng như triết lí tam vô, vô công, vô danh, vô vi, của Đạo đức kinh – Nguyễn Văn Tường gật đầu –. Thật ra, nhập thế mới là đại đạo…
- “Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”!

Trần Xuân Hoà mỉm cười, sau khi ngâm lớn hai câu thơ của Văn Thiên Tường (27). Anh lại dịch ra chữ Nôm:
- Người đời sau trước ai không chết
Lưu lại lòng son sáng sử xanh!

Hoà lại nói:
- Mình hoàn toàn đồng ý với Tường! Phải nhập thế mới đúng đạo làm người, đó là cái lẽ đạo lớn nhất!
- Khi hồi mình nói chưa hết ý. Mình có bàn về tam vô của Lão Tử!… Nhưng dạy học như cụ Lê Đình Khuê, theo mình, cũng tích cực lắm. Đào tạo bao nhiêu là môn sinh! Học trò đỗ đạt có cả hàng trăm. – Nguyễn Văn Tường lại nói –. Cụ thầy trước sau vẫn là nhà nho thôi!… Tất nhiên, có nhiều cách nhập thế, cách nào là tích cực nhất, vậy thôi. Lập đức? Lập công? Lập ngôn? Và nhiều hình thức, dạng thể trong một cách! Với bọn sĩ phu chúng mình, đại đạo đúng là như vậy, như Hoà vừa ngâm nga.
Trần Xuân Hoà đắc ý, lại một lần nữa ngâm sang sảng:
- “Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”!

Ba người bạn hào hứng, vẫn nhẹ nhàng, từ tốn, quanh mâm rượu cho đến khuya.
Ánh trăng tháng mười ở làng Diên Sanh này đang ngời sáng trước sân nhà Giảng.
Tháng ba năm sau, năm Tự Đức thứ tư (1851), Nguyễn Văn Tường dự kì thi hội trong hoàn cảnh bị tội đồ “nhắc nhở lại” vừa mới mãn hạn như thế, với tâm trạng không buồn rầu, nhưng không thể không ê ẩm, mỏi mệt. Khoa ấy, Lê Đình Dao và Vũ Tử Văn đều đỗ phó bảng. Dao lại đứng đầu bảng phụ ấy (28). Nguyễn Văn Tường, bạn bè anh đều hiểu rằng, tư tưởng của anh ít nhiều vượt lên những hạn chế của lối mòn “quan phương, chính thống”, nên quan trường khó lòng để đỗ cao, nhưng cũng khó bề đánh rớt. Dẫu sao, họ vẫn phải để Nguyễn Văn Tường ở mức đủ phân số điểm để được bổ nhiệm làm huấn đạo (29).
Nguyễn Văn Tường nhận chức học quan ở huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi, coi sóc việc học hành cho sĩ tử trong một huyện. Huyện Mộ Đức mới vừa giảm biên chế tri huyện, huyện phải thống thuộc vào phủ Tư Nghĩa. Thầy giáo Nguyễn Văn Tường ở hẳn trong trường học của huyện, tại xã Vạn Phúc (30). Làm thầy giáo, nhưng Nguyễn Văn Tường vẫn thăm mạch, viết phái thuốc cho bà con láng giềng quanh đó.
Lại năm sau nữa, Tự Đức năm thứ năm, Nhâm tí (1852), trường Bình Định bắt đầu được thành lập và mở khoa thi, với sĩ tử tỉnh nhà cùng hai tỉnh Quảng Ngãi, Phú Yên (31). Học trò huyện Mộ Đức của huấn đạo Nguyễn Văn Tường có một người thi đỗ tứ trường hương khoa: Phan Văn Điển, người xã An Thổ, Mộ Đức (32). Khoa sau, Ất mão (1855), Tự Đức năm thứ tám, lúc huấn đạo Tường đã về lại Quảng Trị, một học trò khác của thầy là Nguyễn Hữu Tạo (làng An Đại), đỗ cử nhân (33).
Năm Nhâm tí (1852) đó, triều đình lại định lệ xét bổ cho học quan tham dự chính quyền. Học quan như thầy huấn đạo Tường sau ba năm giảng tập cho học trò, sẽ được quan đốc học xét hạch, để đủ điều kiện được Bộ Lại bổ nhiệm làm tri châu, tri huyện (34).
Cũng năm Nhâm tí (1852) ấy, giặc Tam Đường, một loại giặc Tàu “khách”, thứ khách không mời, ở biên giới phía bắc mới được đánh tan, vỗ yên, phải chia ghép chỗ ở cho chúng (35). Đất nước không yên!
Năm Tự Đức thứ sáu, Quý sửu (1853), triều đình đổi tỉnh Quảng Trị thành đạo Quảng Trị, trực thuộc vào Phủ Thừa Thiên, trở thành một phần đất của kinh sư (kinh đô). Phủ doãn kinh sư Vũ Trọng Bình kiêm lãnh. Tuần phủ của hai tỉnh ghép Trị – Bình nguyên là Phạm Khôi, ông quan họ Phạm này vào kinh làm hữu tham tri Bộ Lễ (36). Cũng dịp đó, triều đình đồng thời cho giải thể phủ Cam Lộ, vốn kiêm nhiếp cả huyện Thành Hoá thưa thớt, ít ỏi dân cư. Huyện Hướng Hoá cách đây ba năm đã thành huyện Thành Hoá, rồi lại được sáp nhập thêm một số châu, xã của các huyện lân cận khác để mở rộng địa bàn. Nay Thành Hoá đã là một huyện ngang tầm với các huyện khác trong địa hạt kinh đô. Tháng sáu năm Quý sửu ấy, thầy thuốc, thầy giáo Nguyễn Văn Tường nhận sắc chỉ do Bộ Lại sao lục gửi vào, chuẩn bị về lại Quảng Trị quê nhà, giữ chức tri huyện ở vùng đất xung yếu ấy, vùng đất mà không một ân chiếu nào không nhắc đến, với một sự ban ơn đặc biệt của triều đình cho nhân dân ở đấy, nhất là đồng bào thiểu số. Nguyễn Văn Tường hiểu rằng anh được nhà vua tin cậy, tin vào sức bền chịu đựng, vượt lên gian khổ, thử thách nơi anh. Hướng Hoá – Cam Lộ, nơi thuở ấu thơ cùng gia đình cha mẹ có dăm năm gắn bó, mưu sinh, nên cũng có thể nói anh là người thổ trước (người địa phương) ở đấy, hoặc ít ra, cũng là người đã có kỉ niệm thân thương bám chặt (trước) với vùng đất (thổ) đó (37). Nay Nguyễn Văn Tường với chức trách quan tri huyện đầu tiên của Thành Hoá, tuổi tròn ba mươi, lại trở về chốn cũ, vào một ngày tháng chín nguyệt lịch, một ngày cuối thu.
Ở Thành Hoá, một vùng núi non hùng vĩ, hiểm trở, có nhiều buôn làng nhân tộc đồng bào ít người, ngoài việc chu tất với nỗ lực trong nhiệm vụ của một huyện lệnh, nhiều lần được vua Tự Đức khen thưởng, thăng cấp, anh vẫn là một lương y, một thầy thuốc tốt. Như một niềm đam mê, y học với tri huyện Nguyễn Văn Tường, từ năm mười chín tuổi, đến lúc này, vẫn là tâm nguyện “hành đạo trợ dân”. Ấy vốn là ý thức nhập môn của nho sĩ, nhưng ở Nguyễn Văn Tường, đó còn là một thôi thúc nội tâm.

Viết đến dòng chữ này lúc 16 giờ kém 03 phút,
ngày 22.08.2002
(14.07 Nhâm ngọ, năm thứ 2 công nguyên Hoà Bình [HB.2]).


TRẦN XUÂN AN


(1) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên (ĐNTL.CB.), bản dịch Viện Sử học, tập 26, Nxb. KHXH., 1972, tr. 253 – 258. Xem thêm: Trần Trọng kim, Việt nam sử lược (VNSL.), bản 1964, Nxb. Tân Việt, tr. 468 – 469; Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa (NĐNĐDVP. & TH.), UB.KHXH. TU. Tp. HCM. xb., 1993, tr. 93 – 99.

(2) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 32 – 33.

(3) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí (ĐNNTC.), bản dịch Phạm Trọng Điềm, hiệu đính: Đào Duy Anh, tập 1, Nxb. Thuận Hoá, 1992, tr. 149.

(4) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 39 – 40.

(5) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 117.

(6) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 69; Quốc sử quán triều Nguyễn và Cao Xuân Dục, Quốc triều hương khoa lục (QTHKL.), bản dịch: Nguyễn Thuý Nga, Nguyễn Thị Lâm, hiệu đính: Cao Tự Thanh, Nxb. Tp. HCM., 1993, tr. 155.

(7) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 70 – 71.

(8) QTHKL., sdđ., tr. 294.

(9) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 88.

(10) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 91.

(11) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 111 – 112, tr. 423.

(12) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện (ĐNLT.), bản dịch Viện Sử học, tập 2, Nxb. Thuận Hoá, 1993, tr. 476 – 477; NĐNĐDVP. & TT., sđd., tr. 58 – 61. Nhân đây, xin trình bày cách phiên âm tiếng các nước Âu Mỹ: Nếu Quốc sử quán triều Nguyễn đã phiên âm và chúng ta quen dùng, tôi vẫn giữ nguyên để tiện việc tra cứu, đối chiếu với ĐNTL.CB. và ĐNLT., nhưng có chua thêm tiếng Pháp hoặc tiếng Anh, chẳng hạn như Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine), Gia Tô (Catholisme), Mỹ Lợi Kiên (US. America)… ; nếu gặp trường hợp phiên âm theo một trong các cách hiện nay và cũng đã quen dùng, mà cách được đa số chấp nhận là có dấu ngang nối tách âm, tôi cũng theo cách như thế, ví dụ như Na-za-rét (hoặc Na-gia-rét, theo Kinh thánh), Lê-nin (Lénine), Ăng-ghen (Engels), I-rắc (Iraq); có khi lại để nguyên tiếng Âu Mỹ, đơn cử như Pierre Tạ Văn Phụng thay vì Phê Rô Tạ Văn Phụng… Tuy nhiên, cũng tuỳ văn cảnh, nhất là tuỳ ngôn ngữ nhân vật thế kỉ XIX, tôi linh hoạt về cách phiên âm; hoặc tên các nhân vật chưa hề được nhắc đến dưới dạng phiên âm (chỉ thấy trong sách nước ngoài hoặc sách xuất bản tại nước ta ở Miền Nam trước 1975 hay từ sau Đổi mới), tôi để nguyên tiếng nước ngoài, chẳng hạn: Charles Duval… Ngoài ra, đối với trường hợp người Pháp có thêm tên tiếng Việt, tôi chua thêm tên tiếng bản ngữ của họ, như cố đạo Trường (Legrand de la Liraye)… Nói chung, cho dù cách nào đi nữa, cũng cố gắng chua thêm để tiện tra cứu.

(13) NĐNĐDVP. & TH., sđd., tr. 52.

(14) ĐNTL.CB., tập 1, bộ sđd., tr. 154; tập 17, tr. 243; tập 26, tr. 276, 385.

(15) ĐNLT., tập 4, sđd., tr. 312 – 313.

(16) Trần Quang Chu, Hành hương La Vang (HHLV.), tập 1, tác giả tự in vi tính, 1999, tr. 5 – 122.

(17) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 185.

(18) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 186 – 187.

(19) QTHKL., sđd., tr. 219 – 310.

(20) QTHKL., sđd., tr. 297.

(21) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 300.

(22) ĐNLT., tập 4, sđd., tr. 416.

(23) ĐNLT., tập 4, sđd., tr. 399.

(24) ĐNLT., tập 4, sđd., tr. 26 – 27.

(25) ĐNLT., tập 2, sđd., tr. 491 – 540.

(26) HHLV., tập 1, sđd., tr. 35.

(27) Viện Văn học, Từ điển văn học (TĐVH.), tập 2, Nxb. KHXH., 1984, tr. 530: Văn Thiên Tường (1236 – 1282).

(28) Cao Xuân Dục (biên tập viên), Quốc triều đăng khoa lục (QTĐKL.), bản dịch: Trúc viên Lê Mạnh Liêu, TTHL. Bộ VHGD. & TN. xb., Sài Gòn, 1961, bản in 1971, tr. 118.

(29) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., 1974, tr. 327.

(30) ĐNNTC., tập 2, sđd., tr. 403 – 404, tr. 409.

(31) QTHKL., sđd., tr. 311.

(32) ĐNTL.CB., tập 24, sđd., 1971, tr. 48; QTHKL., sđd., tr. 320.

(33) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 239; QTHKL., sđd., tr. 334.

(34) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 333 – 362.

(35) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 364, tr. 389 – 390.

(36) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 396, tr. 398.

(37) Nguyên quán lâu đời của dòng họ Nguyễn Văn Tường là Nghệ – Tĩnh, Thanh Hóa.

TXA.



Hết truyện kí thứ hai

XIN XEM TIẾP TỆP 4
Truyện kí thứ ba